Trần Anh Thái – KHÚC HUYỀN CA – Khắc khoải
Posted in Phê bình
NGÀY ĐANG MỞ SÁNG [Trường ca] Trần Anh Thái
Phân tích tác phẩm:
Thể loại: Trường ca.
Nội dung:
Thấy được nội dung nhân bản vượt trội mà tác giả muốn chuyển tải đến người đọc (Thể hiện các chức năng văn học).
1. Số phận con người (Trước và sau chiến tranh)
2. Sức sống mãnh liệt của con người (vượt qua số phận: đau thương, tang tóc, nghèo khổ… để có khát vọng một cuộc sống tươi đẹp hơn trong tương lai).
3. Hạn chế nào còn tồn tại trong cách giải quyết vấn đề số phận con người?
Nghệ thuật:
Chú ý dạng thơ tự do và các phương pháp xây dựng nhân vật, miêu tả sự vật, sự việc góp phần tạo ra cấu trúc mới cho thi ca (thể hiện tính thẩm mỹ văn học).
1. Cách phân khúc cho thể loại trường ca: Hợp lý hay không?
2. Các biện pháp tu từ dùng để chuyển tải nội dung trên?
3. Hạn chế trong cách dùng từ, ngữ, hình ảnh, chi tiết… chưa phục vụ hết cho nội dung?
Cách phân tích: So sánh đối chiếu với các tác phẩm khác của tác giả và của các tác giả khác (trường ca, truyện, thơ, nhạc…) cùng đề tài, cùng nội dung để thống nhất giá trị nhân bản có được của tác phẩm.
Thể loại Trường ca:
Khái niệm cơ bản: Trường ca hay thơ trường thiên là một bài thơ dài gồm nhiều phân đoạn khác nhau về đại ý nhưng bao hàm trong một chủ đề. Nó là một thể loại văn vần hoặc vần tự do nhằm chuyển tải nội dung của hiện thực qua từng thời đại và hướng tới khát vọng chân chính của cuộc sống.
Nội dung trường ca bao hàm phải là những trường liên tưởng trong sáng dù trong hiện thực tối đen và chứa đựng suy nghĩ cao đẹp để hình thành một chân lý vượt qua thời gian, bay qua không gian bằng nghệ thuật với những ngôn ngữ văn học chân thành và ngôn từ nghệ thuật chắt lọc, kỹ xảo để đến với con người.
Nói cách khác, theo Lại Nguyên Ân, khái niệm Trường ca: “Thuật ngữ chỉ tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện trữ tình… Trường ca với tư cách một thể loại tổng hợp, trữ tình – tự sự hoành tráng, cho phép kết hợp chấn động lớn, những cảm xúc trầm tư và những quan niệm về lịch sử” (Trường ca, trang 1866-1867, Từ điển văn học- Bộ mới, nxbtg-2004).
Giá trị: Trên thế giới, các nhà thơ nhận giải Nobel văn học từ năm 1901 đến năm 1998 đều có những trường ca đi theo nội dung này. Ví dụ như trường ca Le bonheur (Hạnh phúc) của Sully Prudhomme (René-Francois-Armand Prudhomme) – Pháp; trường ca văn xuôi Svenskarna och deras hövdingar (Người Thụy Điển và các thủ lĩnh) của Carl Gustaf Verner von Heidenstam-Thụy Điển; trường ca sử thi Der Olympischer Frühling (Mùa xuân Olympia) của Carl Friedrich Georg Spitteler-Thụy Sĩ; trường ca The Waste Land (Đất hoang), trường ca The Hollow Men (Những kẻ rỗng tuếch) của Thomas Stearns Eliot- Anh; nổi bật là trường ca mang tư tưởng nhân đạo Gitanjali (Thơ dâng, Hiến dâng hay Tâm tình hiến dâng) của Rabindranath Tagore – Rabindranath Thakur-Ấn Độ và trường ca chống chiến tranh The world: A naive poem (Thế giới: Bản trường ca ngây thơ) của Czeslaw Milosz- BaLan.
Các dạng:
Trường ca có nhiều dạng: Trường ca anh hùng dạng sử thi như Iliat của Homer thời Hy Lạp cổ đại, hoặc trường ca sử thi theo khuynh hướng lãng mạn như The Song of Hiawatha (Bài ca về Hiawatha) của Henry Wadsworth Longfellow. Trường ca – tình ca Bãi chiến trường – Waterloo (The Field of Waterloo) của Walter Scott; hay là trường ca tôn giáo của Dante như Thần khúc – La divina commedia, về sau có tên là Dante’s Divine Comedy (Thần khúc của Dante, do Henry Wadsworth Longfellow, Khương Hữu Dụng, Lê Trí Viễn dịch). Chủ soái thể loại này có thể nhắc tới Vladimir Vladimirovich Mayakovsky với 6 trường ca lãng mạn nổi tiếng trong đó Wearing pants under a lot of cluods (Những đám mây mặc quần) vượt trội. Hầu hết những trường ca này đều nêu bật lên được những ước mơ chân thiện mỹ. Chúng lấy tình nhân ái, tình yêu làm nền tảng, lên án sự lừa dối, chán ghét chiến tranh và không bị chi phối bởi một cơ chế chính trị nào nên chúng có tính thời gian (tuổi thọ của tác phẩm) một thuộc tính văn học quan trọng mà ít tác phẩm đạt được ngay cả những tác phẩm được giải thưởng này nọ kia…
Tính thời gian là một thuật ngữ văn học có giá trị như một huân chương trên ngực cho những tác phẩm văn học. Tác phẩm nếu chưa hội đủ các chức năng văn học (thẩm mỹ và giáo dục hướng thiện) thì chưa thể công nhận là tác phẩm văn học mà chỉ là tác phẩm của tác giả. Trường ca cũng không ngoại lệ.
Mỗi thời đại đi qua, con người nhận thức cuộc sống khác hơn, trường ca cũng song đôi theo lịch sử phát triển của nhân loại. Có thể nói, trường ca nói riêng hay văn học nói chung đều theo mùa nước nổi cuộc đời về nội dung lẫn hình thức.
Đôi nét về lịch trình phát triển trường ca ở Việt Nam:
Tiêu biểu:
Trước chiến tranh, trường thi thực sự là trường ca chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trường ca sơ khởi có thể nói tới bộ sử thi “Đẻ đất, đẻ nước” của dân tộc Mường; sử thi “Trường ca Đam San” (Klei khan Y Đam San-Bài ca chàng Đam San) của dân tộc Ê Đê đấu tranh cho khát vọng tự do; “Xinh Nhã” của dân tộc Ê Đê và Giarai chống áp bức hay “Xống Chụ xôn xao” của dân tộc Thái ra đời khi con người đi tìm hiểu về nguồn gốc tổ tiên.
Trường ca người Kinh nói riêng và văn học Việt Nam nói chung tính từ năm 1951, ta thấy có “Từ đêm 19” (Khương Hữu Dụng); “Trường ca“-1945-1957 (Xuân Diệu); “Đi! Đây Việt Bắc“- 1955 (Trần Dần); “Gió Nam“-1962 (Trần Hữu Thung); “Trường ca Nguyễn Văn Trỗi (Lê Anh Xuân); “Ngày hội rạng đông“-1978 (Võ Văn Trực); “Theo chân Bác” (Tố Hữu)… Tới chừng này, trường ca mới bắt đầu hội kiến văn học. Thật sự phải chờ tới khi nhà thơ Thu Bồn nhận giải thưởng của Hội nhà văn Á – Phi năm 1973 với trường ca chiến tranh “Bài ca chim Chrao” -1962 và liên tục sự bùng nổ chùm trường ca Thu Bồn ra đời như “Badan khát” -1976, “Campuchia hy vọng”-1978, “Oran 76 ngọn”-1979, “Người vắt sữa bầu trời -1985, “Quê hương mặt trời vàng” -1985, “Thông điệp mùa xuân” -1985, thì người ta mới thấy được sức mạnh và hấp lực của thể loại trường ca này. Lập tức, trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm chào hàng năm 1974 đi theo nhịp bước “tiến vào Sài Gòn” của khí thế chiến trường chung miền Bắc với “Khúc hát người anh hùng“-1974 của Trần Đăng Khoa. Trước đó, Giang Nam có trường ca “Người anh hùng Đồng Tháp“-1969 và tới 28 năm sau, cho ra “Ánh chớp đêm giao thừa“-1998 và dù “Sông Dinh mùa trăng khuyết” năm 2002 sinh sau, đẻ muộn nhưng nó vẫn cho thấy tác giả vẫn còn sung sức.
Thêm sức sống cho trường ca, ba trường ca “Đường tới thành phố” năm 1977-1978, “Trường ca biển” năm 1981-1994, “Sức bền của đất” của Hữu Thỉnh ra đời. Văn học đón nhận thêm “Trường ca sư đoàn” -1980 cùng trường ca đang viết “Mở bàn tay gặp núi” -2007 hừng hực của Nguyễn Đức Mậu và không bỏ quên “Trường ca Đồng Lộc” (Con đường của những vì sao) -1980 của Nguyễn Trọng Tạo. Trong khi đó, Trần Mạnh Hảo hiên ngang, nhân ái với trường ca “Mặt trời trong lòng đất”- 1981, “Đất nước hình tia chớp”-1994 và “Trường ca Điện Biên Phủ”– 2001-2004.
Hưởng ứng… “Hịch trường ca”, hàng loạt trường ca bén lửa, bén đất ra đời nổi bật là“Trầm tích”-1992 đầy chất địa phương của Hoàng Trần Cương; loáng thoáng trường ca “Người lính đi đầu” của Thanh Quế; “Trường ca thành Tây Đô” của Văn Đắc và đã tới ngày… sinh nở trường ca “Chín tháng” năm 2000 của Y Phương cộng thêm trường ca “Hơi thở rừng Hồi” của Vương Trọng; loạt trường ca “Những người lính của làng”-1994-1996. “Nhịp điệu châu thổ mới”, “Nhân chứng của cái chết” của Nguyễn Quang Thiều thử sức dẻo dai trên thị trường thơ dài hơi thời hậu chiến thì trường ca với vóc dáng nam nhi oai hùng của nó bắt đầu hiện đầy đủ ba phần thân thể con người nhưng thiếu chút… sữa mẹ để được “bụ bẩm” hơn.
Thổi thêm luồng sinh lực cho trường ca, không thể vắng bóng trường ca của Anh Ngọc “Sóng Côn Đảo“, “Sông MêKông bốn mặt“-1988, “Điệp khúc vô danh“-1993, “Sông núi trên vai”-1995; còn có “Gọi nhau qua vách núi” của Thi Hoàng; “Tiếng bom và tiếng chuông chùa” của Phạm Tiến Duật năm 1997. Ngoài ra các trường ca “Chia tay cửa rừng” của Phạm Sĩ Sáu; “Trường ca Cổ tích làng cát” của Mai Nam Thắng trong giai đoạn 2001-2003 có mặt kịp thời trong các phong trào thi sáng tác về đề tài chiến tranh. Năm 1999, “Trường ca Hàm Rồng” của Từ Nguyên Tĩnh sau 30 năm mới có dịp hòa nhập vào làng trường ca. Khi Thanh Thảo đặt mốc với trường ca “Những người đi tới biển” năm 1977 và thế chân Thu Bồn đăng quang trong thể loại khó gặm này với “Trẻ con ở Sơn Mỹ“-1978, “Những nghĩa sĩ Cần Giuộc”-1980, “Bùng nổ mùa xuân”-1982, “Đêm trên cát”-1983, “Khối vuông rubích“-1985, “Trò chuyện với nhân vật mình“-2002, “Cỏ vẫn mọc”- 2002 thì khái niệm trường ca được coi như hoàn chỉnh về tên tuổi nhưng vẫn chưa có tầm vóc“hoành tráng” và chưa có tiếng nói chung cho nhân loại về“khát vọng chân chính của cuộc sống” để hòa âm cùng các trường ca thế giới.
Hầu hết các nhà thơ nói trên đều nhận các giải thưởng văn học vẻ vang mà trường ca góp phần mang lại cho tác giả chút công lao bút mực.
Gót chân Asin: Các tác giả viết trường ca ít chăm chút gội rửa tư tưởng, còn khả năng bứt phá ra thế giới bên ngoài để đón nhận luồng tư tưởng nhân văn của nhân loại thì chưa rõ nét. Vì mãi chạy theo phong trào “ăn nóng uống lạnh” mang tính chất phục vụ nhiều hơn văn học nên các trường ca vẫn lùng bùng theo đường lối “tổ ong” và sự chuyển mình còn rối rắm chứ không lọt vào trong vòng xoắn DNA. Nghĩa là vẫn mang tư tưởng “thương nhau tốt xấu một nhà. Ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra”! Thù sâu, đau nặng và ghét thương, xấu tốt chưa ném chính xác vào đâu! Sự hạn chế đó cũng vì ảnh hưởng tính tư tưởng của tác giả cũng là tính khuynh hướng chung của xã hội đương thời chi phối! Mặt khác, vì nặng nề với cái “tôi” xuyên suốt tác phẩm, chạy theo “cách tân” mơ hồ, các tác giả vận dụng tất cả những thể loại thi ca vào trường ca làm cho chúng rối tung lên, chất lượng văn học vì thế như đãi cát tìm vàng. Giải thưởng chỉ là tượng trưng, chất lượng mới là đáng quý, chức vị chỉ có hư vì, danh dự mới là giá trị.
Chuyển hướng sang một phương pháp sáng tác mới, trường ca thứ ba của Trần Anh Thái thức dậy cùng mặt trời dù là mặt trời còn trong mây mùa thu!
KHÚC HUYỀN CA – NGÀY ĐANG MỞ SÁNG
Sau hai trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời” và “Trên đường” như hai đóa hoa rừng cài trên chiếc áo trạng nguyên tăng phần duyên dáng cho thể loại rất kén đọc giả này thì “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng“, trường ca mới nhất của Trần Anh Thái một mình vượt lên đổi mới và cùng nằm trong thể loại trường ca nói trên mang tính nhân bản. Mặc dù nó chưa chứa nổi “dung lượng lớn” và mang tính chất “hoành tráng” nhưng nó được công nhận với đầy đủ tư cách một “thể loại tổng hợp” khi được chuyển tải trên 44 trang giấy với 5.868 từ gồm mười một ca khúc đan chéo nhau giữa bi và tráng, giữa hoàng hôn và bình minh.
Nhìn nhận, 11 khúc ca trong “Khúc Huyền ca” của Trần Anh Thái tương phản nhau giữa bóng tối và ánh sáng; giữa thất vọng và niềm tin; giữa hiện thực và ước mơ. Chúng có giá trị văn học nhất định nếu được hiểu đúng theo chiều tươi sáng nhất.
Giá trị của một tác phẩm bao giờ cũng được xét theo hai mặt: Nội dung và hình thức theo truyền thống.
GIÁ TRỊ NỘI DUNG
Lời mở:
Đã mấy chục năm qua rồi, những nỗi đau mất mát cũng như chút hạnh phúc nhỏ nhoi bên lề sự sống đều chìm theo thời gian, theo từng số phận mong manh. Con chim trước khi chết vẫn hát lên bài ca lãnh lót. Cỏ cây bị dầm bẹp đầu vẫn cố nhoi lên tìm lấy sự sống trong khô cằn. Con người trước những đau thương, khốn cùng cũng vặn mình chổi dậy. Ở đâu có nấm mồ, ở đó, cỏ vẫn xanh dù trong hắt hiu, dù trong chiều buồn. Ở đâu có nước mắt, ở đó có lời thơ trôi qua từng năm tháng.
Trần Anh Thái với lời thơ trôi qua từng năm tháng hình thành một bản trường ca “Ngày đang mở sáng” tức “Khúc Huyền ca”. Thanh Thảo trong “Ta ngạt thở chờ bước chân em tới” (toquoc.gov.vn) đã nghĩ về bạn mình: “Anh viết như anh thở, viết như anh vui như anh buồn như anh đau như anh chết”.
Tôi đã viết như tôi đã chết
Nước mắt tạc vào gió thổi ngàn sau..
Hai câu thơ đẫm đầy nước mắt thời cuộc, lặng lẽ theo gió về với ngàn sau. Lời huyết thư như cạn kiệt dòng dư lệ chảy theo từng số phận con người. Trần Anh Thái đưa nó về cuối bản trường ca “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” như ký hiệu kết thúc một bản nhạc về con người trước và sau cuộc chiến, tự đẩy lùi hoàng hôn để tìm thấy bình minh.
A. Thiên nhiên và con người trong ca khúc hoàng hôn:
I Thiên nhiên:
1. Cánh đồng, đất đai: Trong các trường ca chiến tranh nói trên, cánh đồng quê hương nếu không“chảy máu” thì hầu như nhòa trong mắt người đầy khói súng trên “mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm và “đất còn đang nhỏ máu ngày ngày” mà Văn Cao trong trường ca “Những người trên cửa biển” đã ghi hoặc “bữa ăn đào từ đất” mà “đất lại bỏ hoang” trong trường ca “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh. Hoàng Trần Cương với trường ca “Trầm tích” nhích hơn trên khô cằn, tang tóc vì có thể mô tả cánh đồng của mình “mảnh đất nghèo mồng tơi chưa kịp rớt” nhưng lại:
Cánh đồng lúa đang thì con gái
Mẹ lận vào lưng không phải mấy con cua mà đùm hạt giống
… Khi lúa lốp sợ nhỡ thì con gái
Đất ruộng làng ta cũng đã mỡ màu
Thiên nhiên trong “Trầm tích” vô cùng lãng mạn khi bóng dáng nguời yêu “Em ngang qua chiều. Nắng thơm mùi rượu. Mắt sông. Môi lửa. Gió lên đồng” hiện hữu bên người lính chiến phong sương.
Riêng với “Khúc Huyền ca”, thiên nhiên mở ra một bức tranh với cảnh đồng quê không còn nguyên vẹn như “Bức tranh quê” của Anh Thơ mà là một cánh đồng:
– Khô nức nẻ.
– Rười rượi luống cày.
– Ngày không gió.
– Cánh đồng đói khô.
– Xác xơ.
– Đất nổ tung.
– Ẩn đầy bất trắc.
– Lấp sấp.
– Mờ nhòa sương khói.
Nếu cánh đồng trong“Khúc Huyền ca” xác xơ thì cánh đồng trong tập thơ“Trên đường” (Nxb HNV-2004) của Trần Anh Thái mà Dương Triều Minh trong “Trường ca ‘Trên đường’ một cuộc đổi mới thơ” (evan.com.vn), cho rằng đây là: “một trường ca cuộn xiết khát vọng như làn gió run rẩy vừa trào sôi vừa bền bỉ nhẫn nại“, chẳng còn nguyên lành chi. Chúng giống như “Cánh đồng hoang” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng và đạo diễn Nguyễn Hồng Sến năm 1979. Hình như trong tác giả, hình ảnh cánh đồng quê nhà khô hạn, chết cháy đã in đậm trong tâm trí không dễ gì xóa bỏ.
Mở đầu “Trên đường” là “Khúc ca quê hương”, hiện ra:
Cánh đồng như ẩn hiện bóng người
Gió khe khẽ một bài ca cũ.
Xuyên suốt tập thơ, cánh đồng ấy chỉ là một “cánh đồng khô hạn”. Trong khúc ca về “Ba Bể” (Trên đường), một cánh đồng theo nhận diện của người trong thơ:
Tôi nghe nức nẻ cánh đồng
Tiếng thở dài mặt ruộng
Hạt gieo chưa kịp nẩy mầm.
Trong khúc “Trở về” (Trên đường), nhân vật chính đã chuyển mình về trạng thái một người lớn hơn, ý thức hơn từ “tôi” sang “anh” cho một đối tượng khác nhưng cánh đồng trong anh nào có đổi thay gì, nó vẫn chỉ là một cánh đồng buồn hiu:
Anh nghe thẳm thẳm cánh đồng
Lời ru vọng lại
Cánh đồng hun hút
Cúi đầu nhìn tay.
Nhìn đôi tay đã bất lực hay nhìn tay mình để đọ sức với thiên nhiên? Ta hãy nhìn cánh đồng trong ký ức của Trần Chấn Uy:
Hút tầm mắt vồng ngực cánh đồng
Phì nhiêu lúa tràn bờ như sóng vỗ
đầy sức sống với những “con cá rô đồng mập mạp nằm phơi lưng” của một thời chưa từng có hoàng hôn chiến tranh và nỗi buồn thế sự đã thay bằng cánh đồng khô hạn, con người khổ sở như trong cánh đồng Trần Anh Thái. “Những cánh đồng thơm ngát, những ngã đường bát ngát” trong “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Đình Thi cũng một đi không trở lại vì chiến tranh:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.
Cánh đồng mất mùa của Trần Anh Thái chẳng ghê gớm như hình ảnh ẩn dụ “dây thép gai” trong “Đất nước”. Nó cũng không mơn mởn như trong “Trầm tích”:
Cánh đồng lúa đang thì con gái
Mẹ lận vào lưng không phải mấy con cua mà đùm hạt giống
Cánh đồng trong “Khúc Huyền ca” cụ thể khô hạn là do thiên nhiên khắc nghiệt, do chiến tranh chứ không phải là một cánh đồng lắm ma nhiều qủy mà trong đó, những người lao động thì ít mà kẻ mê xác thịt, ham hố dục vọng, thiếu văn minh và mất tính người thì nhiều như trong“Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư hay là “Chốn vắng” của Dương Thu Hương. “Khúc Huyền ca” cũng chẳng công kích cụ thể từng hạng người như trong thể loại tiểu thuyết mà “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Tường là một điển hình hay nó không thể êm ả như “Nắng đồng bằng” của Chu Lai hoặc “Đất trắng” của Nguyễn Trọng Oánh.
Giữa hai cánh đồng một hiền lương, một ác ma, cánh đồng nào là cánh đồng hiện thực đáng cho người đọc cảm kích, thương tâm còn cánh đồng nào lùi về thời tiền sử đáng ghê rợn? Cánh đồng nào là hiện thực của đất nước Việt Nam, cánh đồng nào là phi hiện thực của dân tộc Việt Nam? Giá trị thực sự nào của tính dân tộc được thể hiện?
Con người lao động càng thất vọng, càng nghèo khổ thì khát vọng về một cánh đồng xanh mơn mởn, đầy sức sống sẽ được nhân lên theo cấp số nhân về một chân trời mênh mông…
Các tác phẩm có giá trị văn học, đương nhiên phải có tính chất này. Có những tác phẩm mở đầu và kết thúc chỉ một bức tranh hay chỉ một màu xanh hoặc màu xám. Công tắc một. Một số tác phẩm khi mở đầu là khoảng tối nhưng kết thúc là ánh sáng. Công tắc hai. “Khúc Huyền ca” đã bật công tắc hai:
Nước dòng sông tự chảy tràn trề
Tươi thắm cánh đồng màu mỡ phù sa.
Thoạt đầu, ta thấy “Khúc Huyền ca” mở ra trước mắt chúng ta chỉ là một biển trời âm u…nhưng nó bất tử cũng như “Cánh đồng không bao giờ chết” của Nguyễn Hữu Qúy.
2. Biển trời:
Nếu biển trời trong “Trường ca biển” của Hữu Thỉnh để cho người lính biển cùng biển hồn nhiên “đối thoại’, để cùng nhau tâm tình trên “cát“, để biển nghe lời thì thầm “tự thuật của người lính” cùng sóng tự hào “đất này” để ray rứt vì “hóa thạch những dòng sông” và được cùng nhau vượt qua “bão biển” thì biển trời của “Khúc Huyền ca” đau đáu con tim:
– Chật vật.
– Trời đang vỡ ra.
– Trăng rằm côi cút.
– Sông Vệ thẩn thờ, kiệt dòng.
– Sóng âm thầm gục trên bờ cát.
– Đường kiệt sức.
– Rừng đạn bom.
– Không gian ngột ngạt.
– Những vì sao tối dần.
Nếu biển trời trong “Khúc Huyền ca” đã “kiệt sức” thì biển trời trong “Trên đường” cũng “không còn vỗ sóng”:
Biển không còn êm đềm vỗ sóng
Ta chạy như bay giấc mơ bên bờ biển
Chợt vấp vào đáy sâu không rõ hình hài.
Con người không rõ mình là ai trong “đáy sâu” của biển. Biển… nuốt trọng những giấc mơ thời thơ trẻ trong “Giấc mơ sau 11/9” (Trên đường):
Sóng cồn gió cát
… Biển Đồng Châu năm tháng vỗ u trầm
Người sống thoi thóp nên trời biển cũng từng cơn hấp hối tâm linh. Một ý tưởng trong tiềm thức vọng ra. Một dấu hỏi ngàn năm mãi hỏi. Một ẩn dụ cho cuộc đời, cho số phận chung: “Không có bờ sóng vỗ vào đâu?”. Không có bờ cho con sóng vỗ thì làm sao có chỗ cho con vật làm hang trong “Trở về”:
Con chão chuột trong hang dụi mắt
Tiếng sóng khàn đêm.
“Tiếng sóng khàn đêm” hay tiếng người gào thét? Biển không bờ hay người chẳng bến đi? Như nhau. Người không chỗ tựa để mặc “nước triều xô lệch bàn chân”. Đời đen tối cũng như biển nhưng cùng biển tri âm:
Biển bốn mùa sóng đục
Tôi soi dọc đời tôi.
Biển che chắn tôi
Tiếng sóng nhọc nhằn.
Giữa biển trời và người có mối thâm tình nhất định không thể chối bỏ. Nó có thể là mối thâm tình phụ tử “ấm áp như vầng thái dương” trong “Tình cha” của Ngọc Sơn; hay tình mẫu tử mà nhạc sĩ Y Vân trong “Lòng mẹ” đã tha thiết ngợi ca “lòng mẹ bao la như biển Thái Bình” nhưng không thấy rõ nét tình yêu như mối liên hệ khắng khít giữa “Thuyền và biển” của Xuân Quỳnh. Tiếng sóng của Trần Anh Thái “khàn đêm” thất vọng đến não ruột chứ không còn thời gian nồng nàn, “dịu êm” như sóng Xuân Quỳnh:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
“Khúc Huyền ca” về biển cũng vắng mặt một tình yêu “hôn thật khẽ thật êm” nóng bỏng “như nghiến nát bờ em” trong tình “Biển” của Xuân Diệu. Lãng mạn bỏ chăn, nhường chiếu cho hiện thực đắp trong “Cát” (Trường ca biển) của Hữu Thỉnh:
Cát và cát
Ầm ào sóng biển
Gió và gió
Ngày ngày lại đến
Xóa đi phần mộ của anh nằm
Chúng tôi lại cùng nhau bới cát
Chôn anh thêm một lần.
Biển trong Trần Anh Thái không có người để “bới cát”, để “xóa đi phần mộ” mà nó cứ se xót một ẩn dụ: “Biển mãi hát giữa không bờ bến. Sáng mai này, cát trắng chết tinh khôi” (Khúc ca quê hương, Trên đường). Một cái chết trong sạch của “Trên đường” cũng như của “Khúc Huyền ca”. Một cái chết chôn hai lần của “Trường ca biển“. Một cái chết sinh lợi trên “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”. Ngàn cái chết hai lần thịt da nát tan của “Hát trên những xác người“! Cái chết không tên nhưng biển gọi có tên. Biển của Y Vân dành cho mẹ trong “Lòng mẹ” là biển Thái Bình, còn biển của Trần Anh Thái có tên “cúng cơm” là Đồng Châu. Đọc “Khúc Huyền ca” hay “Trên đường”, ta bắt đầu làm quen với cái tên Đồng Châu. Đồng Châu của ”Khúc Huyền ca” là một bãi tắm hấp dẫn du khách hiện nay. Một ca khúc thời một ngàn chín trăm… bật ngữa với một người con trai nào đấy, tự tình hứa với người thương rằng anh: “Sẽ đưa em về thăm quê hương anh nơi Tiền Hải. Nghe sóng Đồng Châu vui mê mải hát bốn mùa” (embracel.blogsome.com). Thì ra, biển Đồng Châu ở ngay trên quê hương của tác giả (Tiền Hải – Thái Bình). Vậy mà trước đó, Đồng Châu chỉ dự báo những chuyện đau buồn, phân ly! Vì sao? Biển Đồng Châu của Trần Anh Thái hay của chú bé hồn nhiên trong “Khúc Huyền ca” luôn là một biển động:
Mưa sắp đổ phía Đông Hoàng
Biển Đồng Châu sấm chớp.
Vạn vật đều có tâm linh cũng như dự báo thời tiết. Dự báo thời tiết lắm khi trời ơi, nhiều phen đất hỡi nhưng những biến động của cuộc đời, của thiên nhiên trong giác quan thứ 6 của con người bao giờ cũng chính xác mà chẳng tử vi, bói toán nào bói một quẻ trả lời vì sao? Dự đoán thời tiết trong “Khúc Huyền ca” là “Biển không còn êm đềm vỗ sóng“. Biển trời nỗi phong cũng như báo động về số phận con người lao động trên quê hương. Người nông dân trong “Bài ca vỡ đất” của Hoàng Trung Thông tự hào“bàn tay ta làm ra tất cả” với đồng ruộng. Người lính biển trong “Trường ca biển” của Hữu Thỉnh châm bẩm lời ru của mẹ “ra sông lấy sóng mà yêu, đường xa gặp núi lấy đèo mà tin”. Ngư dân yêu biển của mình như trong “Khúc Huyền ca” tràn đầy tha tình cảm tha thiết với thiên nhiên và tự hào về người lao động chứ không phải phỉ báng cái nghèo của họ và họ chẳng phải là lính gì cả:
Ta người dân chài hát trên sóng biển
Sóng vỗ nhọc nhằn về những ước mơ.
Chiến tranh với những “nhọc nhằn” làm người ta quên đi những con sóng tình yêu có tự bao giờ! Bạn bè với trời đất, con người cũng còn lại là những sinh vật như số phận con người lao động thoi thóp theo ngày tháng trước khi tự vực mình đứng dậy.
3. Sinh vật:
Trong trường ca “Mặt đường khát vọng“, sinh vật của Nguyễn Khoa Điềm đầy sinh khí, dễ thương với tuổi học trò: “Bèo lục bình mênh mang màu mực tím” còn “Phượng cứ nở hoài như đếm tuổi” và “những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng, rút những cọng rơm vàng về kết tổ” . Sinh vật cũng ngàn ngạt hương trong “Trường ca biển” của Hữu Thỉnh:
Thơm nín hương cau
Bời bời hoa bưởi
… Châu chấu cào cào xanh tím rủ tôi đi.
nhưng lại xác xơ vì chiến tranh trong “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm: “Ôi những con cò “tỵ nạn” khô gầy. Đêm đêm lại về hàng cây thành phố. Lao xao tìm chốn ngủ. Những bờ bãi nào không dành cho cò nữa. Những luỹ tre nào bom đã khai quang? Ôi những hàng cây từng in bóng huy hoàng. Trên đại lộ những năm đời mới lớn. Giờ đổi lá trầm ngâm màu tóc trắng. Của bụi đường và khói hơi cay…”. Sinh vật trong “Khúc Huyền ca” lại lặng lẽ với cuộc sống u buồn hiện thực hơn:
– Tiếng cuốc kêu đói lả.
– Chim sếu co ro.
– Không có hoa mào gà.
– Nhện giăng qua đường.
– Chim trói cột gõ vang
– Bầy quạ đen hốt hoảng.
– Thuyền trôi dạt.
– Côn trùng rền rĩ.
– Những con còng rúc hang.
– Cây vú sữa trái mùa rụng lá tím bầm mặt đất.
Những ngọn cỏ thiếu nguồn sinh úa ngọn xanh xao.
Sinh vật trong “Khúc Huyền ca” không có âm vang vui tươi với những tiếng “cút cu, cút cu chim rừng ca trong nắng” như trong “Nhạc rừng” của Hoàng Việt. Nó cũng không có âm vang rộn ràng bởi những tiếng “chim kêu, chim kêu ven rừng suối gọi” trong “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn“ của Lư Nhất Vũ.“Khúc Huyền ca” cũng chẳng thể mơ mộng“nước khe cạn bướm bay lèn đá” trong “Trương Sơn đông, Trường Sơn tây” của Phạm Tiến Duật. Vì sao?
Vì những khúc ca viết cho một thời kỳ chiến tranh thì mọi thứ đều phục vụ tâm lý chiến. Nét hiện thực phục vụ cuộc chiến chắc chắc sẽ được thêm ánh bình minh với tiếng chim rộn rã. Với “Khúc Huyền ca”, Trần Anh Thái như viết cho mình, đã suy nghĩ, và quyết định cho nổ tung… Người trong cuộc là người biết nhiều nhất. Dĩ nhiên, nó thực hơn là mộng. Điều chắc chắn, Trần Anh Thái không mượn dòng sông để nhắn nhủ người yêu như Thông Đạt trong “Ai về sông Tương?” Không mượn khung cảnh héo tàn mà thố lộ tình yêu. Một bầu trời ảm đạm. Một thế giới chui rút thì làm sao có chỗ cho tình yêu lứa đôi! Không muốn mất cái này thì phải hy sinh cái kia. “Không có bữa tiệc nào dọn sẵn” nhưng vẫn có “ánh sáng nâng niu qua những khổ đau”. Vậy thì hãy trân trọng và giữ lấy nó. Chưa có thì đành cùng đắm mình trong thế giới sinh vật mà vui buồn cùng nhau. Hóa thân của nhà thơ thường là đấy!
Trong “Thức dậy một mặt trời”, cây trái cũng chẳng tươi tắn hơn:
Hết năm rồi cây vườn không còn rụng lá
Quả mướp già queo quắt cạnh bờ ao.
Có phải những âm thanh vui nhộn của thiên nhiên ban cho sinh vật cũng bị ảnh hưởng chiến tranh mà mất tính hồn nhiên hay trong người thơ đã mất đi sức sống vì “dòng sông thời gian“? Không hòa mình với thiên nhiên thì sao hiểu chúng rõ ràng như thế? Cũng như trong “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương chỉ còn lại mùi cỏ ký ức có tính cách tố cáo tội ác chiến tranh:
Mùi cỏ còn đắng nghét đến hôm nay
Mùi cỏ dẫn con vào năm tháng thơm lành.
Mùi cỏ mặn và khắn như lông bò tẩm nắng
Mùi cỏ khét dây trói tay cha.
“Khúc Huyền ca” chẳng hề so sánh gì hết. Nó chỉ là người khắc chữ trên cây, đóng đinh trên đá. Từ ngữ thả xuống muôn vàn ẩn ý hiện ra đồng điệu với sinh vật trong “Khúc hát người anh hùng” của Trần Đăng Khoa:
Tiếng sương rơi rộp… rộp… mái tranh
Gợi dáng cành tre lả theo chiều gió
Tiếng xa vắng côn trùng trong cỏ
Gợi chiều sâu không cùng của đêm
Hình như cứ sau một tứ thơ tả thực cảnh tan tác của sinh vật:
Một tiếng chim côi cút rừng xa
… Căn hầm xưa um tùm hoa dại
… Hoa Mua tím giữa rừng
Khàn tiếng quạ kêu
Thì lập tức “Khúc Huyền ca” lại “lưỡng phân” thêm một mầm sống, một tia sáng hy vọng bằng “Những sinh linh bé bỏng yếu mềm dựng lên gương mặt trần gian”. Không hòa mình với thiên nhiên thì sao hiểu chúng rõ ràng như thế? Không hiểu sự sống quý báu của con người thì làm sao hiểu được giá trị thời gian?
4.Thời gian:
Thời gian trong “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương là thời gian mặc niệm “Lặng im mới dài lâu. Lặng im là màn đêm ngậm một nửa địa cầu”.
Thời gian trong “Dấu chân qua trảng cỏ” của Thanh Thảo được nhân hóa trong sắc áo ẩn dụ “như cỏ” có sức sống và như “kim chỉ nam” cho con người sau chiến tranh:
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
… Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường…
Thời gian của Nhật Minh có bị xước bị cào thì cũng là “Bình minh“: “Từ những vệt xước thời gian trên màu ngói, đang sáng lên một hơi thở mới”. Thời gian của Đoàn Phú Tứ toàn màu sắc qua thính giác, thị giác:
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh.
Thời gian trong “Trường ca sư đoàn” của Nguyễn Đức Mậu là thời gian tâm lý nặng tính dân dã “Mẹ bấm đốt ngón tay tính trăng tròn mỗi tháng. Chúng con đi dọc Miền Tây, Trường Sơn… Ngón tay khô gầy. Mẹ tính đốt thời gian”. Thời gian trong “Khúc Huyền ca” trái ngược ngay cả khi nó “rỏ máu” như Trần Đăng Khoa trong “Khúc hát người anh hùng” đã ẩn dụ “Thời gian rỏ từng giọt máu”. Thời gian trong “Đổ bóng xuống mặt trời” nhòa với đất chiến tranh: “Chiến tranh đi qua dọc con đường đầy hoa tươi và vòng tang trắng. Nắng tháng năm nhoà gương mặt thời gian. Thời gian đi mất. Hoa của trời héo đổ thời gian. Tôi đắp vào da thịt mình những mảnh màu ẩn sâu trong đất Và dâng lên đầu lưỡi rìu máu đất đỏ thời gian”. Thời gian trong “Khúc Huyền ca” là thời gian chiến tranh, nó đi qua chỗ nào, chỗ ấy chẳng còn sinh khí:
– Tháng năm gầy mòn, yếu ớt.
– Bình minh chết trong chùm mây bạc.
– Ngày chật hẹp.
– Thời gian rỉ máu
– Hoàng hôn khép vào đêm nhàm chán.
– Ngày buông nắng thẩn thờ.
– Nắng qua thờ thẩn.
– Ngày tháng loanh quanh.
– Hoàng hôn mặt trời
– Bóng tối lặn thinh.
và cũng là thời gian tâm lý “Tôi quên chiều chiều mẹ ngồi bậu cửa, tiếng thở dài trĩu nặng gánh thời gian”. Thời gian được nhân hóa. Trước hết, nó cũng già nua, ”yếu ớt”, bệnh hoạn, ”rỉ máu” như con người. Sau đó, nó trở thành thời gian của lửa “Lửa đang sáng lên phía chân trời” và hòa lẫn vào ngàn ánh lửa trong các trường ca bạn bè.
Còn bây giờ: Một bức tranh cánh đồng, biển trời, sinh vật, thời gian tan hoang, khô cằn, tan tác và không sức sống hiện ra. Giữa cảnh thực thiên nhiên như thế, con người xuất hiện chống chọi như thế nào qua giá trị tính hiện thực của tác phẩm?
II. Con người với từng số phận:
Con người là sản phẩm của xã hội. Xã hội như thế nào, con người như thế ấy. Trong tác phẩm của tác giả, con người được xây dựng, miêu tả với những nét tính cách trần trụi, nhiều khi dung tục hóa nhưng khi họ đi vào tác phẩm của văn học thì những nét tính cách văn học thay thế nét tính cách trần trụi. Thay thế được những nét tính cách này, nhân vật văn học đòi hỏi khả năng cầm viết và tính tư tưởng mang giá trị nhân văn của tác giả.
“Tính cách là hình ảnh con người được phác họa đến mức đủ rõ và đủ xác định, thông qua đó làm bộc lộ một dạng hành vi, suy nghĩ lời nói có căn nguyên lịch sử, đồng thời cũng làm bộc lộ một quan niệm của tác giả về tồn tại con người” (Lại Nguyên Ân, tính cách, trang 1736, Từ điển văn học-Bộ mới, Nxb tg-2004).
Trường ca là thể loại tổng hợp trữ tình và tự sự nhưng tính tự sự đã được trữ tình hóa, nét tính cách nhân vật trong trường ca chưa rõ lắm như trong các thể loại kịch, tiểu thuyết, truyện nhưng không phải là không có. Trước hết là những con người lao động vì không có đối tượng này, thế giới con người không tồn tại. Nét tính cách và sự phát triển nhân vật trong trường ca tùy thuộc vào chủ đề mà tác giả chọn. Nó không nhất thiết phải hoàn toàn là người lao động nhưng hình như các chủ đề trong các trường ca trước và sau hậu chiến của Việt Nam, không nhiều thì ít vẫn mang bóng dáng người lao động chân đất buồn vui qua những thăng trầm.
1. Người lao động: Trong trường ca “Khúc hát người anh hùng” của Trần Đăng Khoa, hình ảnh người lao động là những người nông dân như bà Chanh, bà Bưởi, cụ Đình đấu tranh với “hai bàn tay để cày xới đất” đã trở thành bất tử:
Tâm hồn của một người dân
Đã thành ánh sáng trong ngần hôm nay…
Những con người lao động trong “Trường ca sư đoàn” của Nguyễn Đức Mậu là những người lính thực sư từ những giai cấp công nhân, nông dân, trí thức nhập cuộc:
Những liềm búa, cuốc cày nhập ngũ.
Những câu thơ, giáo trình nhập ngũ
vào làm “lính binh nhì“: “Không có mũ: đội trời. Không dép giày: chân đất. Ba lô chưa kịp phát. Gói võng làm ba lô” nhưng gián tiếp vẫn là những con người lao động âm thầm mà họ một đời mang ơn:
Chúng tôi biết ơn bà mẹ nghèo làng Gióng
Đã nuôi con lam lũ, nhọc nhằn”.
Người lao động trong trường ca “Mặt trời trong lòng đất” của Trần Mạnh Hảo là những người Củ Chi ngày lao động tối đào hầm. Người lao động trong trường ca “Sóng Côn Đảo” của Anh Ngọc là những người dân, tù Côn Đảo quật cường. Người lao động trong trường ca “Sông Dinh mùa trăng khuyết” của Giang Nam là liệt sĩ Nguyễn Thị Trừ xuất thân từ dân lao động Ninh Hòa – Khánh Hòa “mẹ sinh ta trong rơm rạ khô nghèo”. Trường ca “Những nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những người nông dân theo Trương Định khởi nghĩa, “Đường tới thành phố” hay “Trường ca biển” của Hữu Thỉnh là những người lính có gốc tích từ dân lao động… Họ vẫn nhớ từng con tép, ngọn rau và giữa chiến trường vẫn miệt mài lao động:
Cám ơn ngọn rau dựng người ốm dậy
Cám ơn con suối, cám ơn bờ khe
Con tép chết bom từ bến ngược trôi về
Nếu không đói không thể nào vớt được
Phát một mảnh rừng, trần lưng cuốc cuốc
Cuốc và vun rồi kéo cỏ ngụy trang.
Khắc họa được nét tính cách của người dân lao động toàn diện, phải nói đến trường ca “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương. Như cái tên gọi, người lao động hiện dần qua ký ức họ là niềm tự hào của người lính trẻ miền Trung. Nguồn gốc của anh trong “Nguổn cội” đơn giản mà diệu kỳ:
Mẹ tôi đẻ rơi tôi bên cối giã gạo
Tôi lấm láp đáp mình vào đất
Gió Lào mặc cho tôi chiếc áo màu nâu
Liên tục những đầu đề phân đoạn là cội nguồn của người lính miền Trung như “Đất mật” là hình ảnh “Bà xâu mấy đồng xu rỉ xanh rỉ vàng chuột tha vào trong ngạch. Quàng lên buồng chuối sau nhà” hay trong “Cật tre“: “Sợ con nít lằn lưng trên cái chõng đan bằng tre cật. Không biết ai đã luồn vào dưới lưng tôi một tấm mo nang Nồi khoai xéo. Bát ngô dăm. Độn ánh trăng vàng” hoặc trong “thóc giống”: “Sinh con. Mẹ là hạt thóc đã mọc mạ rồi. Vẫn sưởi ấm mùa đông bằng khoảng trống của hai vỏ trấu” để cuộn tròn một ký ức “miền Trung” là một “Mảnh đất quê anh một thời ngún lửa. Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa. Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam”. Trường ca “Trầm tích” đầy ắp những ký ức đồng quê như khúc hát mượt mà ấm tình lính chiến trong “Lá thư miền Trung”của Lam Phương hay đằm thắm trong “Quê em” của Nguyễn Đức Toàn thuở “đồng xuôi luá xanh màu, giặc tràn lên đốt phá”” một dạo nào.
“Khúc Huyền ca” có cách đi “lưỡng phân” (hai mặt ngược nhau như bài nhạc có nốt đảo phách) riêng của nó. Trước hết, nó đưa ta về với người lao động bằng những tháng năm chiến tranh, hạn hán, trong đó, con người:
– Run cơn khát.
– Niêu cơm trống mắt.
– Bóng người xơ xác, tàn bay.
– Quên ngày tháng năm sinh.
– Luôn giật mình.
– Cúc áo cài lộn ngược.
– Cơn đói mờ run.
Bức tranh này có khác gì bức tranh “Hữu phụ huề tam nhi. Tương tương tọa đạo bàng” với ba mẹ ăn xin ngồi trên đường của Nguyễn Du trong “Sở kiến hành“? Con người đã mất hết cảm giác chính mình vì nhiều vất vả? Vì nhiều trăn trở? Vì những lý do nào đó? Họ đã bắt đầu quên chính họ với thực tại, chẳng ý thức bản thân mình “cúc áo cài lộn ngược“? Cái gì đã làm cho họ sống không ra giống Người? Người lao động sống mòn rồi cũng chết mòn trên đồng ruộng của họ:
Người thợ cày nhâm nhi giọt máu của mình
Chảy qua những dòng sông cánh đồng biển sâu lam lũ.
Ngoài kia trôi dạt con thuyền.
Cũng là chiến tranh. Cũng là chủ trương “Người cày có ruộng“. Thực chất của bức tranh này là cái gì? Là con người với từng số phận thơ ngây mà hẩm hiu. Người lao động không lối thoát vì sự nghèo nàn “Người bị ruồng bỏ ở chính mảnh đất của mình” và họ sẽ không có cơ hội ngóc đầu lên khi “Hết chiều“:
Phía chân trời cơn mưa vần vũ.
Đổ xuống người đang cắt lúa đêm.
Đêm úp xuống lưng người úp vào bóng tối.
Tiếng thở dài trút mặt đất đai
Họ phải ra đi với một bám víu nào đó dù “kiệt sức” để có một cuộc sống bình thường như một thuở chưa có hoàng hôn:
Người cuối cùng níu vào trời mây.
Níu vào sóng biếc.
nhưng “Khúc Huyền ca” một lần nữa trả lại cho họ niềm tin trong ẩn dụ sinh tồn: “Sự sống sinh sau cái chết già”. Phải trải qua thương đau, phải đi qua chết chóc, con người mới tìm ra đúng giá trị niềm tin vốn đã bị đánh tráo bởi chiến tranh và bởi chính con người mà một dạo Trần Dần chép miệng trong trường ca “Đi! Đây Việt Bắc”:
Quả đất lớn
Mà
Tâm địa nhỏ
Nó chi li từng hạnh phúc đơn sơ.
“Chi li” cho đến bây giời! Đó là một trong những hiện thực của xã hội Việt Nam thời kỳ giông bão. Phản ảnh được quá trình phát triển của con người qua từng thời đại, “Khúc Huyền ca” đã làm được chức năng thứ nhất của văn học: Tính người.
Nói như Nguyễn Xuân Nam, tính người “cũng gọi là tính nhân loại, nhân tính, tính chủng loại người. Khái niệm chỉ thuộc tính chung của loài người hình thành trong quá trình lao động sản xuất và sinh họạt xã hội. Những thuộc tính đó làm nên bản chất nhân văn của tác phẩm” (Tính người, trang 1742, Từ điển văn học- Bộ mới, nxbth 2004).
Tính chủng loại bao gồm các thành phần trong xã hội cần được tác phẩm thể hiện.
2. Bé thơ: Tuổi thơ của những nhân vật trong các trường ca Việt Nam đều có những giây phút êm đềm dù trong cuộc chiến hay thời hậu chiến. Trong trường ca “Trầm tích” tuổi thơ của người lính nằm êm ấm trong vòng tay của bà: “Hàng xóm nhặt tôi vào đặt lên chiếc chõng tre. Chiếc chõng tre đen bóng mồ hôi vẫn nép ở đầu hồi. Bà nội thường đem ra ngồi trông cháu” và tuổi thơ ấy vẫn nằm trong tình mẹ chắc chiu “Chiều chiều mẹ ra sông mót cá. Tôi tha thẩn khắp vườn bòn mấy quả mận xanh. Thủ thỉ với con diều tre trận mưa đá đêm qua làm sã cánh. Thủ thỉ với bóng cò trong ca dao mới dạt vào tránh bão. Thủ thỉ với chiếc sào phơi bện rễ cây rừng. Thủ thỉ với cây mít còm nhựa ứa rưng rưng”. Ấm cúng quá chừng chừng!
Trong trường ca “Mặt đường khát vọng“, tuổi thơ đã biết nghĩ hơn người lớn, biết vặn vẹo thầy giáo của mình:
Có gì đâu chúng con muốn yêu thương
Sao thầy giảng chỉ những lời cay đắng.
Máu thì đỏ mà phấn thầy thì trắng
Có vẽ nổi tâm hồn chúng con không?
…Chúng con đến đây cho những thằng CIA điểm mặt
Thầy có gì đuổi giúp chúng con không?
Trời à! Học trò lanh như thế thì chẳng ai dám nộp đơn vào sư phạm! “Trường ca biển” tuổi thơ người lính đảo đầm tính hơn, chẳng mồ côi như em bé Tà Ôi của “Khúc Huyền ca”:
Tôi sinh ra trước lúc lên đèn
Bóng mẹ sáng lại mờ trong mắt cha hoảng hốt
Trong căn nhà đất
Tháng hai buồn tiếng thạch sùng kêu
Mẹ đã dắt tôi qua những miệng vực sâu của mọi sự rủi ro.
Trong thơ ca thời chiến, tuổi thơ của “Quê hương” vô tư, hồn nhiên và đầy đủ biết chừng nào:
Thưở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao…
Tuổi thơ trong “Quê hương” đã hòa với “Đường tới thành phố” trên học đường. Nếu trong “Mặt đường khát vọng“, tuổi thơ sớm biết cật vấn thầy thì trong “Đường tới thành phố”, những em may mắn đến trường, hạnh phúc trong thế giới thần tiên trong “tô vẽ” mà hy vọng thời “tem phiếu” để “hiểu vì sao ta bớt giấy in thơ. Để in phiếu đường, phiếu thịt. Vì sao những người thợ cày giỏi nhất. Đang khoét chiến hà bằng một chiếc xẻng con”:
Em cứ tô đậm nữa đi em
Tô thật đậm để hiện ra đất nước
Sớm mai em bổ con lợn đất
Bao niềm vui sẽ tỏa dưới chân
Thật có lý với nghĩa nào cũng được khi Trần Mạnh Hảo viết trong “Tiếng chim rừng gáy“:
Nghĩ thương đất nước mình nghèo
Con chim cũng biết chắt chiu cho người.
nhưng con người có biết gì “chắt chiu?”. “Khúc Huyền ca” không nuôi hy vọng bằng những vẽ tô. Chẳng nhắc nhở ai bài học vỡ lòng em bé. Năm tháng làm người đã thay hình đổi dạng trong cuộc sống. Văn học phản ánh cuộc sống thì không lý nào nó lại dậm chân một chỗ. Cùng trong hoàn cảnh chiến tranh, những em bé tham gia đánh giặc xuất hiện đầy trên các trang thơ, tiểu thuyết dù có thật hay chỉ là nhân vật hư cấu mang những tính cách của tác giả phục vụ chiến tranh thì em bé của Trần Anh Thái bình thường, vô tư dù hiện thực có như thế nào đi nữa. Nét tính cách này đúng với tâm sinh lý của tuổi thơ “ăn chưa no, lo chưa tới“: Những gì làm tuổi thơ mất đi tính hồn nhiên này, những cái đó mới thành “tội nhân thiên cổ”. Vì vậy mà ta thấy, em bé giữa cánh đồng khô:
– Cắn ngọn cỏ gà
– Em bé Tà Ôi:
Mút tay trố mắt
Như không thấy gì
Như không có bạn
Như không tồn tại
Như không có người
Bóng nhờ mặt đất.
“Bóng nhờ mặt đất”, một hình tượng lập lại của “đổ bóng xuống mặt trời” năm nào cho từng “số phận nghiệt ngã”, Trần Anh Thái cảm nhận số phận con người chín mùi đến tận bàn tay. Hình ảnh “Mút tay trố mắt” thơ dại vô cùng! Nó không “u uẩn” như “Đôi mắt người Sơn Tây” của Quang Dũng:
Đôi mắt Người Sơn Tây
U uẩn chiều luân lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây,
Nó không giống như những “Đôi mắt mang hình viên đạn” của em đang “xoe tròn”, của mẹ cháy lên với“với bao lần tiễn biệt” chực chờ “trút lên quân xâm lược dã man” của Trần Tiến hay đôi mắt rực lửa căm thù giặc ghê sợ dù không biết “Mỹ như thế nào?” của Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc. Em bé Tà Ôi của Trần Anh Thái trong “Khúc Huyền ca” đã “như không tồn tại“. Chỉ cần bốn từ này thôi, người đọc đã hình dung ra một “sắc sắc, không không” bởi có mà như không của đạo Phật. Từ lâu, Trần Anh Thái đã từng tuyên ngôn cho thơ: “thơ ca như là một thứ tôn giáo có khả năng cứu rỗi linh hồn con người. Cuộc sống càng sôi động, càng gấp gáp, con người càng dễ rơi vào những bi kịch. Trong đó cô đơn là một bi kịch lớn. Khi con người cô đơn, người ta sẽ tìm đến những khoảng lặng trong tâm hồn. Thơ ca cũng có những khoảng lặng như thế để đồng điệu với con người và lúc đó nó như là một phương tiện để cứu rỗi. Khi thơ ca phát triển đến đỉnh cao của nó, nó sẽ đi đến chiều sâu tâm linh con người” (evan.com.vn).
Tồn tại hay không tồn tại lại là một dấu hỏi giữa duy tâm và duy vật, giữa siêu thực và siêu hình. Em bé Tà Ôi côi cút giữa núi rừng là một chứng nhân của siêu thực. Tác giả đã vận động trong thế giới siêu thực ra sao?.
Từ Thái Bình, người lính trẻ miền Bắc vào Quãng Trị qua Thừa Thiên – Huế, hành quân lên miền xuôi để gặp em bé Tà Ôi – em bé Pa Cô “con cháu Bác Hồ”ngây thơ trong mưa đạn. Hình ảnh bé thơ giữa côi cút tiếng chim gợi cho ta một cảm giác cô độc thương đau…
Tà Ôi em bé cút côi. Tà Ôi có “người bạn già du kích năm xưa” cũng nào có được tương lai sáng sủa gì:
Cởi trần đóng khố
Ngày ngày vác bẫy vào rừng
Rủi may số phận
Bếp lửa nhà sàn hiu hắt tàn tro
… Trí nhớ già nua
Bần thần vịn bóng ngày yếu ớt
Người bạn lính già này không lấy chiến công làm lẽ sống, chẳng nhắm công hầu để hành hiệp mà chỉ lấy lao động làm niềm vui sau khi hy sinh tuổi trẻ phục vụ chiến trường như “Người lính trở về” của Trần Chấn Uy:
Nét cười chẳng gợn chút buồn
Hồn nhiên nhận phần thua thiệt.
Hay nhận một cuộc sống đơn sơ nhưng đầy ấp hương đồng gió nội với tình gia đình ấm cúng trong “Ngày hòa bình đầu tiên” của Phùng Khắc Bắc:
Hôm nay nhận những lỗ thủng
Anh về quê không mang súng
Vũ khí lúc này hai bàn tay
Mẹ giục:
– Ăn cơm, con!
Hòa bình trong canh cua, mồng tơi, cà
Và
Mùi ổ rơm.
“Mùi Ổ rơm” của Phùng Khắc Bắc hay “Hơi ấm ổ rơm” của Nguyễn Duy hoặc “Bếp lửa” của Bằng Việt là biểu tượng rất đáng tự hào người dân quê Việt Nam “trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa”. Không thể dùng nó để “ẩn dụ” cho cái nghèo nàn của quê hương. Mục tiêu của người du lích Tà Ôi năm xưa đi chiến đấu có phải là để cho em có được tháng ngày vui tươi “mang cơm cho mẹ em đi cày” hay cho sự bình đẵng giữa người dân tộc Kinh và Pa Cô nói riêng và giữa người miền xuôi và miền ngược nói chung? Giữa mênh mông, hun hút của núi rừng, thinh không vọng về câu hỏi: Mẹ em đâu? Mẹ ta ở đâu với “cúc áo cài lộn ngược” giữa chân trời mù mịt tương lai còn số phận thì như con chim bắt cô “trói cột gõ vang” những điệu buồn oán trách? Trường ca lại chuyển tải thêm một lớp người không thể thiếu trong từng tác phẩm.
3. Mẹ:
Đây là nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình của từng tác phẩm. Toàn bộ văn học Việt Nam nói chung và thể loại trường ca nói riêng đều không thể thiếu bóng dáng nhân vật chủ thể này dù là mẹ thật mang ta chín tháng mười ngày hay mẹ ẩn dụ là mẹ quê hương Hình ảnh người mẹ trong văn học đều có số phận lam lũ trên đồng ruộng hoặc tích cách chịu đựng, hy sinh tùy theo tác giả tái tạo rất trân trọng trong tác phẩm của mình. Người mẹ trong “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh được tái tạo trong hoàn cảnh nghĩ vể người mẹ khi người con tiến vào Sài Gòn:
Mẹ ít ngủ mẹ thường thức khuya
Đêm nào cũng dài
Căn nhà có mười mấy mét vuông
Làm lụng đến già còn bao nhiêu tất bật
Trong trường ca “Những người đi tới biển” của Thanh Thảo, người mẹ lại hiện diện trong ký ức người con trước khi lên đường trong một ngày mưa:
Khi con thưa với mẹ
Mưa bay mờ đồng ta
Ngày mai con đi
cùng một lời thì thầm: “Cho con xin bắt đầu từ mẹ. Để nói về chúng con. Lớp tuổi hai mươi,ba mươi điệp trùng áo lính. Xanh màu áo lính. Đã từng sung sướng, đã từng ngọt ngào. Được làm con của mẹ”. Trong truờng ca “Trầm tích“, người mẹ được tái hiện cũng qua trường liên tưởng của đứa con đang ở Trường Sơn: “Con máy mắt liên hồi. Chắc mẹ thầm nhắc gọi. Xin mẹ đừng lang thang ra ngoài ngõ. Đừng tựa lưng thêm vào nơi mẹ đứng chờ con… Những tiếng thở dài. Có phải cây cau vừa trổ gai. Níu mẹ lại khỏi ngã xoài xuống đất. Chiến tranh đi qua bàn tay lật. Hất vào mắt mẹ. Bóng tàn nhang”. Còn trong “Mặt đường khát vọng“, người mẹ trong lòng con cao cả, bao la như con sông Hồng của Nguyễn Khoa Điềm:
Mẹ phà vào con nồng nàn mùi sữa
Của những đồng xa nguyên vẹn như mùa
… Nhưng đêm đêm con trở về thân thuộc
Ngủ trên cánh tay mẹ hiền từ cay đắng nuôi con
Trong tháng năm chớp bể mưa nguồn.
Người mẹ trong “Trường ca sư đoàn” đã trở thành người mẹ quê hương:
Cầu Ái Tử chập chờn bóng mẹ bồng con
Mẹ ngồi đó đêm mưa, ngày nắng
Mẹ ngồi đó một thời bom đạn
…Cánh tay khô gầy, làn mây tóc trắng
Mẹ vẫn ngồi như hóa tượng từ lâu
Rung cảm và gợn buồn, trầm lặng mà nhân hậu, người mẹ trong “Khúc Huyền ca” ngắn gọn trong những cấu trúc mới:
– Ra đi trong đêm
Sương khuya mò bóng.
– Khát bàn tay lạnh.
– Run rẩy quay đi
– Nước mắt mẹ nghẹn đêm.
– Đầu gối run run
Hai tay chống đất
– Lẩn thẩn hai tay sờ soạng phên thưa.
– Má bới ngày
Hạt rơi héo đất.
Mẹ ta đang “mò bóng” trong sương. Sự lao động cực nhọc của cái gọi là “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm” của thời kỳ thử nghiệm tem phiếu thực phẩm, cháo hẩm lương khô hay “một sương hai nắng” của dân tộc như thành ngữ đã dùng? Xót quá! Còn đâu là những ngày “Huyền thoại mẹ” của Trịnh Công Sơn? Còn đâu người mẹ đào hầm của Dương Hương Ly trong “Đất quê ta mênh mông”? Người mẹ trong “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh cũng cực khổ sáng chiều:
Sáng úp mặt ngoài đồng
Chiều còng lưng cuốc đất
Người con sau chiến tranh trong “Đêm mưa” của Tô Hoàn, trở về thấy mẹ thiếu trước, hụt sau mà ngậm ngùi:
Con về thăm mẹ, đêm mưa
Mới hay nhà dột, gió lùa bốn bên.
Mưa rơi sợi thẳng, sợi nghiêng
Cứ nhằm chỗ mẹ những đêm trắng trời.
Con đi đánh giặc suốt đời
Vẫn không che được một nơi mẹ nằm.
Cái khổ của mẹ vì chiến tranh, vì cái gì đó nữa cũng ẩn hết trong những đoạn thơ gợi những hình ảnh súc tích đầy ngậm ngùi trong “Khúc Huyền ca”:
Mẹ ngồi chống cầm
Mưa suốt cả ngày
Một ngày
Tro tàn nguội lạnh
Chiếc kiềng bếp chỏng chơ
Niêu cơm bỏ dở
… Mẹ vẫn ngồi
Cỏ rêu len đầy cửa bếp.
Một ngày
Đầu gối run run
Hai tay chống đất
Bàn thờ nguội ngắt
Biền biệt khói hương.
Cuối cùng, ta nghe động lại trong con tim đau nhói một hiện thực với tiếng thở dài: “Hoàng hôn khép vào đêm nhàm chán”. Người ta cần cánh đồng cho lương thực? Cánh đồng ma! Người ta cầu cứu vào “Thượng đế” nào đó trong tính ngưỡng nhưng hắn cũng “ở nơi đâu trong hốc mắt thẳm sâu”? Những từ ngữ ấy đã nói hộ nỗi thất vọng từ trong đôi mắt đói khát, thiếu ngủ vì lo lắng, thiếu sinh khí của người lao động. Phải chăng là một cách nhìn bế tắc?
Cách hiểu thứ hai mở khoá cho “Khúc Huyền ca”: Phải chăng con người trong tận cùng bằng số cũng vẫn cố giữ lấy một niềm tin (là Phật? là Thượng Đế?) trong đôi mắt trống hoắc vì đói, vì đau thương? Một ẩn dụ nhân bản nào đó vừa phôi thai? Một điểm tựa cần bám víu để sinh tồn?
“Khúc Huyền ca” tưởng chừng như chết yểu khi khai sinh tính từ “nhàm chán” nhưng nó như con chim bị thương với nhiều vết đạn vẫn cố lao mình về phía mặt trời trong cụm từ cứu cánh: “Ngày dần sang”. Tức là ngày bắt đầu có bình minh và bóng tối tạm lùi vào sau hoàng hôn theo quy luật. Bé thơ – mầm non của cuộc sống kịp thời xuất hiện trên cánh đồng khô hạn, chết đói là một điểm sáng của khúc ca:
Không có hoa mào gà cánh đồng khô nứt nẻ,
bé thơ đứng cắn ngọn cỏ gà chớm nở bình minh.
Ngày dần sang,
Hoàng hôn khép vào đêm nhàm chán.
Thế hệ trước nó hầu như đã kiệt quệ với ân huệ của thiên nhiên và cuộc đời nhưng tuổi thơ như măng non vẫn hồn nhiên qua từng trang thơ Trần Anh Thái. Thông cảm với từng số phận, “Khúc Huyền ca” đã tự nâng cấp nó lên khái niệm khác của thuộc tính văn học, đó là: Tính nhân dân.
Nguyễn Văn Hạnh nhận xét: “Thông cảm với nhân dân, gần gủi gắn bó với nhân dân… Tính nhân dân thể hiện ở chỗ văn học nghệ thuật liên hệ mật thiết với cuộc sống của nhân dân” (Tính nhân dân, trang 1743, sđd).
Nhưng một tác phẩm mang tính nhân dân không chỉ dừng ở đấy mà phải giải quyết cho được mối quan hệ giữa họ và xã hội theo chiều tươi sáng dù đã, đang ở tận sâu thẩm của màu đen. “Khúc Huyền ca” đáp ứng được chưa?. Trong tối có sáng, có bi có hỉ, ”Khúc Huyền ca” đã giải quyết được một phần giá trị nội dung này.
Trần Anh Thái đang khai thác về một khía cạnh khác hun hút đau thương và đau đáu tình người. Lưỡng phân đã bắt đầu từ khúc I và cứ thế cho hết XI khúc như “hết cơn bỉ cực tới ngày thái lai”.
B. Thiên nhiên và con người trong ca khúc bình minh:
I. Thiên nhiên: Thênh thang đầy màu sắc như một “dàn đồng ca” trong “Ngày đang mở sáng“.
1. Thế giới mới:
Khi “bình minh hé mở“, ta thấy cánh đồng khô hạn, cỏ cháy biến mất. Nó nhường chỗ cho:
– Dưa hồng.
– Ruộng mía.
– Trong trẻo bầu trời.
– Nắng thu trong suốt.
– Gió biển lim dim.
– Sóng xa êm đềm.
– Sân nhà lùm rơm nức mùi lúa mới.
– Mặt trời bừng lên sóng vỗ rì rầm.
– Tinh sương rộ lên.
– Phưng phức hoa mào gà
– Ban mai bừng thức
”Khúc Huyền ca” như “Ngày đang mở sáng” mở ra là một bức tranh sinh động giữa khô cằn của cánh đồng, giữa cỏ cháy của thiên nhiên, giữa đói khát của cuộc đời và giữa niềm tin của con người. Cuộc sống như được hồi sinh trên từng “Cái sân gạch“, “Vụ lúa chiêm” của Đào Vũ “Đất làng” của Nguyễn Thị Ngọc Tú, “Thăm lúa” của Trần Hữu Thung, “Dọn về làng” của Nông Quốc Chấn, “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng” của Chế Lan Viên và rộn ràng như “Xúc xích mùa thu” của Hoàng Nhuận Cầm, “Khúc mùa thu” của Hồng Thanh Quang.
Mùa thu của Trần Anh Thái no ấm như “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu. Nó chứa đựng tình người, tình thiên nhiên chớ không phải “chỉ còn anh và em” trong “Thư tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh. Tác giả đã cho mọi thứ hồi sinh, sống lại sau cái chết. Đó cũng là một “Lễ phục sinh” của đạo Thiên Chúa? Từ nơi đây, thi ngôn mà “Khúc Huyền ca” lập lại chính là “Thơ ca như là một thứ tôn giáo”! Ai theo tôn giáo nào thì giữ đức tinh theo tôn giáo ấy! Một chân lý. Tuy nhiên, chân lý không tồn tại trong những tôn giáo mang tư tưởng phi nhân văn.
Bầu trời mở ra cho tôn giáo thi ca. Thế giới cũng không hẹp hòi với thiên nhiên, sinh vật trong lòng thi nhân. Ngược lại, cảnh thu trong “Trường ca Trừng phạt” của Trần Đăng Khoa âm u của không khí địa ngục tội ác chờ “trừng phạt” của Nguyễn Huy Thiệp:
Đoàn người đi
Trong sắc chiều vàng úa của âm ti
Lá khô lác đác
Nghe thoang thoảng mùi hương trầm ngan ngát
Tiếng chuông khua xa vời…
Chó ngao im lặng nhìn người
Quỷ trắng đứng bồng thanh sắt.
Khúc thu trong “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh đã hoá thân vào “điệp khúc những cây cầu”:
Có khúc buồn nhưng cuộc đời vốn khỏe
Tôi gọi về những tuổi những tên
Như mùa thu gọi heo may rải rác
Với thời gian tôi xin làm đá tạc
Hỡi mây trời hãy xuống hát cùng tôi.
“Khúc Huyền ca” tươi sáng khi bóng dáng mùa thu xuất hiện. Nó tươi tắn chẳng phải vì thời tiết tự nhiên mà vì tình người quan tâm đến người tha thiết trong trường ca:
Và em ơi mùa thu đẹp quá, mắt em trong sáng vòm trời,
Ta thổn thức chờ em nơi cửa biển
Đừng lần lữa trái tim ta muốn vỡ, mặt cát bồn chồn hoa sứ ngọt ngào thơm.
Mùa thu chiến tranh đã thành mùa thu “trang sức” trong thơ Thanh Thảo trong một ngày thanh bình:
Sợi dây chuyền bí ẩn của bóng đêm
Những chiếc chuông mùa thu trong trẻo
Rung lên khi thành phố bay về trời
Anh sẽ đeo vào ngực em
Cơn bão.
“Ngày đang mở sáng” của Trần Anh Thái cùng Hoàng Nhuận Cầm mở lòng với “Những câu thơ viết đợi mặt trời”.
2. Sinh vật và vật thể:
Mọi thứ như mầm xuân trỗi dậy sau mùa đông giá băng. Những câu thơ bắt đầu có “linh hồn”. Toàn bộ những bản trường ca trở thành khúc nhạc hành quân đi giữa mùa xuân. Trong “Đường tới thành phố“, sinh vật hiện ra rộn ràng trong sắc xuân chiến thắng:
Con gà trống cù kỳ quanh vại nước
Hạt thóc ngậm vào thành ngọc của tình yêu
Tiếng nó gáy rung vang cườm ngũ sắc
… Rục rịch chiều nắng chếch lỗ thông hơi
Và mùa xuân, anh nghe rõ mùa xuân
Hoa xoan rụng trước cửa hầm tím cát
Tiếng ếch nổi nênh dọc bờ khoai nước
Cò lại về đậu trắng cánh đồng sâu
Sinh vật trong “Hoa phượng và hoa cúc” của Trần Mạnh Hảo đi vào ước mơ: “Cho trái chín bình yên. Thóc cởi trần làm gạo. Tiếng ve trôi như thuyền. Chở mùa hè đi dạo”:
Chở đêm vào trái nhãn
Chở ngày vào trái dưa
Tiếng ve trôi bị cản
Vấp vào hương cúc đưa.
Say mê với mùa xuân sẽ chiến thắng, thiên nhiên trong trường ca “Những người đi tới biển” chuẩn bị “bùng nổ một mùa xuân”:
Cơn gió lạ một chiều không rõ rệt
Hoa chuẩn bị âm thầm trong đất
Nơi đó nhất định mùa xuân sẽ bùng lên
Hơn một điều bất chợt
Hình như ngọn lửa đom đóm lập lòe nhá trong màn đêm vẫn là hình ảnh quê hương gợi cảm xúc cho các trường ca. “Khúc Huyền ca” cũng ru mình vào thế giới thần tiên của mình với:
– Đàn đom đóm.
– Lâu đài kỳ ảo.
– Con thuyền cổ tích.
– Ngôi nhà hoàng tử.
– Chim khuyên gõ cửa.
– Con tàu trong mơ.
Ta thấy, những con nhện giăng trên đường, con quạ đen, côn trùng rên rĩ, con sếu co co… đều biến mất để hiện ra một thế giới sinh vật từ nhỏ bé “đom đóm” như trong “Cánh rừng nhiều đom đóm bay” của Nguyễn Đức Mậu, đến thứ to lớn hơn là “con tàu”. Đom đóm đưa đèn đem đuốc đến? Con tàu cổ tích có trăm con…! Ối chao! Mơ nặng mộng quá! Những thứ thơ mộng này chỉ có thể đi với lứa tuổi ngày hai buổi đến trường. Nhân vật bé con lập tức xuất hiện trong giấc mơ “mặt trời bừng lên sóng vỗ rì rầm“.
II. Con người:
Con người trong các trường ca chiến tranh và thời hậu chiến đều mang trong mình một lý tưởng của chủ nghĩa đương đại. Tất cả đều là những con người anh hùng hoặc là ác ôn trong mắt tác giả: Là những người lính chiến trong các cuộc chiến, thậm chí những người đã thành liệt sĩ trong lịch sử như ca ngợi Hùng, Rin (Bài ca chim Chrao), Nguyễn Văn Trỗi (Trường ca Nguyễn Văn Trỗi), Chị Nguyễn Thị Trừ (Sông Dinh mùa trăng khuyết), những chiến sĩ Điện Biên Phủ (Trường ca Điện Biên Phủ), những chiến sĩ Trương Định (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc), Ba Tơ (Bùng nổ mùa xuân), Nguyễn Đình Chiểu (Trò chuyện với nhân vật), là những người tù Côn Đảo (Sóng Côn Đảo). Họ còn là những người lính một đoàn cụ thể (Trường ca sư đoàn), là những con người ở địa đạo Củ Chi (Mặt trời trong lòng đất), người lính bảo vệ cầu Hàm Rồng (Trường ca Hàm Rồng)…
Hướng về người lính hiện có mặt trên các chiến trường (Những người đi tới biển, Trường ca biển, Đường tới thành phố, Trường ca sư đoàn, Đường đến những vì sao, Những người lính của làng, Mặt đường khát vọng). Nói về con người với bao nhiêu mối quan hệ cần giải quyết như tội ác, như tâm tư, tình cảm (Trường ca trừng phạt, Chín tháng, Bài thơ Việt Bắc). Ca ngợi sức sống quê hương, ca ngợi con người (Sóng Côn Đảo, Thông điệp mùa xuân, Trầm tích, Mặt trời trong lòng đất, Người cùng thời)…
Điểm chú ý là hầu như ký ức tuổi thơ của những người lính chiến thời kỳ nào trong các trường ca đều khắc họa những tính cách “khác thường” so với tâm sinh lý hiện thực với những suy nghĩ đi trước tuổi lớn. Riêng “Khúc Huyền ca” cũng bằng ký ức tuổi thơ nhưng nó đi theo chiều phát triển đúng tâm lý và hầu như Trần Anh Thái qua ký ức người lính đã có một cảm nhận riêng về cuộc chiến mà những trường ca khác không thể có và không dám có..
1. Tuổi thơ:
Tuổi thơ trong trường ca “Người cùng thờt” của Mai Văn Phấn được hư cấu từ trong cổ tích chạy ra:
Lũ trẻ ùa ra từ chiếc bình kia
Hân hoan chạy tới bến xưa
Vẽ hình hài thế kỷ sau trên mặt cát bây giờ.
Tuổi thơ của “Khúc Huyền ca” không chỉ là những tháng năm đau buồn vì chiến tranh vì thời cuộc mà nó từ trong đau thương như chim Chrao của Thu Bồn năm xưa bay về phía mặt trời – biểu tượng khát vọng tự do lớn nhất của con người. Nhịp sống trong trường ca Trần Anh Thái bừng lên khuôn mặt thiên thần:
– Mê man huyền thoại.
– Chờ mùa lúa mới.
– Giòn tan nụ cười.
– Hồn nhiên, kiêu hãnh tràn trề.
– Hát vang bài đồng dao ngọt lịm.
– Ăn no nê.
Đặc biệt trong hồi tưởng, bé con trong “Khúc Huyền ca” đã không cô đơn dù đơn giản một hành động “em bé cắn ngọn cỏ gà” trên cánh đồng khô nứt nẻ, hay em bé Tà Ôi sống như chết mà trái lại, nó đã cùng cô bạn gái chui vào cổ tích đi tìm nơi mặt trời đã cất giấu con tàu huyền thoại:
Sáng sáng chim khuyên gõ cửa bình minh, mẹ đứng ngây trước gương thiên thần mỉm cười lặng lẽ.
Tôi vùng dậy thả hai bàn chân xuống gường đung đưa trên mặt sóng.
Mặt trời bừng lên sóng vỗ rì rầm.
Tôi hào phóng tung những con tàu cất giấu trong mơ
Bay mãi mãi về phía mặt trời bí ẩn.
“Khúc huyền ca” bắt đầu có hướng chuyển mình thành bản “Trường ca Đam San”, “Xinh Nhã”. Vì sao?
2. Chính là vì có người mẹ:
– Âu lo đêm (dùm cho con).
– Nâng niu, chăm chút (con trong tay).
– Thao thức (vì con).
– Thở dài (với thời gian dùm con).
Nguồn sống của mẹ cho nó hay nói cách khác, nguồn sức sống của người mẹ vượt qua cơn khốn khó, cùng cực là vì con thơ, vì:
Ngọn lửa xa xôi đôi mắt con thơ
Người vịn vào đôi mắt ấy dò tìm
Run rẩy vịn qua tháng năm gầy mòn yếu ớt.
Tuổi thơ của thằng bé đi qua tháng năm “gầy mòn” của mẹ. Tuổi thơ của thằng bé là “ngọn lửa xa xôi“, là tiếng thở dài “trong sương khuya mò bóng” của mẹ. Sự hy sinh thầm lặng của mẹ đã chấp cánh cho nó và cô bạn thời thơ ấu bay vào giấc mơ, khám phá vũ trụ. Nhưng, than ôi! Lại là “Khúc huyền ca” ngày cạn dần, hoàng hôn tới nhưng vẫn toát lên khát vọng tương lai. Đó chính là nội dung vượt thoát bao trùm tác phẩm. Xuyên suốt qua từng thuộc tính vạn vật, “Khúc Huyền ca” tự trang bị cho nó thêm đôi cánh: Tính nhân dân – Tính phổ quát. Vượt trên những trường ca từ những trường ca đi qua khói lửa hay vào thời hậu chiến, tiếng nói từ trái tim của một trái tim từ trong chiến tranh, “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” đưa ta về với từng số phận cho “người sau biết đường ra chiến trường” khổ sở, ác liệt và cũng thắm thiết một tình nhân loại mà không phải tác phẩm nào cũng “dám” chuyển tải.
Giá trị công lao của người mẹ hầu như toàn bộ các trường ca đều đề cao và hết sức trân trọng. Điều đó mới làm cho những trường ca có tính thời gian nhưng văn học cũng có tính đào thải những gì không thuộc về quần chúng nhân dân.
Về tính nhân dân, Nguyễn Văn Hạnh viết: “Khái niệm chỉ mối liên hệ giữa văn học nghệ thuật và nhân dân. Nhân dân bao gồm chủ yếu những người sống bằng lao động của chính mình, là thành phần đông đảo nhất trong cư dân một nước, một dân tộc, là nền tảng của xã hội và động lực của lịch sử, là ngọn nguồn mọi giá trị vật chất và tinh thẩn của cuộc sống… làm sao cho tác phẩm nghệ thuật được dân hiểu và yêu thích…” (Tính nhân dân, trang 1743, Từ điển văn học-Bộ mới, nxbtg-2004).
Tính nhân dân thể hiện rõ nhất trong “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” là nâng niu từng số phận con người.
C. Nâng niu từng số phận con người:
(Nét nhân bản chính của “Khúc huyền ca – Ngày đang mở sáng”):
Đó là số phận những con người phụ nữ làm vợ, làm mẹ trước và sau chiến tranh. Đó là số phận của những người ra trận trong tư cách con người cầm súng. Đó là những số phận con người thời hòa bình. Đó cũng là số phận hồn ma bóng quế đi vào đời lãng quên…
Trong “Khúc Huyền ca” có bốn nhân vật nữ mà nhà thơ cất công dàn dựng từ hiện thực cuộc sống: Mẹ, Chị, má Mừng và “Em” – cô bé mà tuổi thơ, cậu bé ước mơ bay lên tìm con tàu bí mật, đã yêu mến và người lính, người vô danh… Những người này, họ đã sống trong hiện thực “hoàng hôn” và “bình minh” trong các trường ca nói chung và của Trần Anh Thái như thế nào trong và sau chiến tranh?
I. Trước và trong chiến tranh:
“Ôi quê hương đã lầm than, sao còn, còn chiến tranh!”. Chiến tranh trong nhạc Trịnh Công Sơn như một điệp khúc đánh động lòng người còn khóc người đã mất và làm kẻ sống sót bàng hoàng đau thương. Nhạc đi cùng thời gian. Thơ đi cùng năm tháng. “Khúc Huyền ca” trăn trở với những tháng năm “điêu tàn” với Chế Lan Viên. Khúc IV, V và X, nhà thơ tập trung vào những sự kiện chiến tranh.
Theo người bạn… “thần đồng” Trần Đăng Khoa, tác giả “Khúc Huyền ca” -Trần Anh Thái là “một người lính từng bị thương nơi trận mạc”. Chân dung… thanh tú của Trần Anh Thái cũng… bị thằng bạn ác tâm vẽ xấu như… ma trong bài “Người thường gặp, Trần Anh Thái-bạn tôi, (datviet.com.vn): “Trần Anh Thái buồn nẫu, gương mặt xương xương vốn hoạt bát, linh động, bỗng thoắt sâm sẩm héo hắt như vòm cây vừa tắt nắng…Phải! Anh là một người đa mang. Anh biết rung động trước nỗi khổ của những con người bất hạnh. Bằng sự rung động này, anh đã tiếp cận được với thơ ca. Mới hay, cái cô nàng kiều diễm, nhưng khủng khỉnh trái nết có tên là thi ca này, cũng có một trái tim trắc ẩn. Bởi thế, thơ ca dường như chỉ đồng hành với những nỗi đau khổ của thế gian thôi”. Cùng đồng hành với Trần Đăng Khoa còn có Thanh Thảo – người gầy còm như… tăm xỉa răng chứng thực: “Trần Anh Thái đã từng là người lính đánh vây lấn ở núi Đình Cương- một trận đánh kéo dài và khốc liệt. Thái cũng đã từng uống nước dòng sông Vệ, như đã uống nước sông quê miệt biển Thái Bình” (Ta ngạt thở chờ bước chân em tới, toquoc.gov.vn). Hãy xem, “Khúc Huyền ca” tái hiện những năm tháng chiến tranh “không có con đường thứ ba” như thế nào?
1. Chiến tranh đè nặng cảm xúc tan nát gia đình: Đề tài chiến tranh là một đề tài không bao giờ cạn kiệt nhưng cảm nhận về cuộc chiến nếu chỉ biết căm thù và tái tạo con người bằng nghệ thuật cường điệu hóa cảm xúc, thần thánh hóa thủ trưởng, ngoa dụ hóa tình cảm thì hình như dòng thi hứng này đã không đất sinh tồn vì đã mất tính thời gian. Giá trị có được của “Khúc Huyền ca” chính ở chổ khác về cảm nhận này.
a. Mẹ, cha, chị, anh và em: Họ đã hóa thân vào đất nước.
Cảm nhận về đất nước khi có chiến tranh, Nguyễn Đức Mậu trong “Trường ca sư đoàn” canh cánh một nỗi đau:
Đất nước tôi chia làm hai nửa
Trận bom rung vọng suốt hai đầu
Trong cuộc chiến này
Triệu chiếc võng rừng sâu
Làm triệu cây cầu
Nối liền vết cắt
Da thịt người vá lành da thịt đất
Trong nỗi đau của đất có con người.
Một cảm nhận nhập cuộc với con đường hành quân Bắc tiến đẹp như “hoa đỏ nguồn sông“. Một cảm nhận của một người cầm súng viết lên những vần “thơ người ra trận“. Lời cảm nhận về chiến tranh đi trong “cây xanh đất lửa“. Nó có giá trị tại một thời điểm nhất định như “mưa trong rừng nhớ” và tồn tại với dấu tích chiến tranh khi người lính giải ngũ về nhớ lại “con đường rừng không quên” của mình.
Trong “Thử nói về hạnh phúc”, Hữu Thỉnh ghi lại cảm nhận từ “âm vang chiến hào” của người lính khi nghe đạn bom: “mỗi lúc bom rung đất rơi đầy mặt, đất rơi đầy giấc mơ, những giấc mơ chập chờn”. Còn đây, Thanh Thảo trong “Dấu chân người lính” tự hào:
Cả thế hệ xoay trần đánh giặc
Mặc quần đùi khiêng pháo lội qua sông…
Cuộc sống ở đây vẫn cuộc sống bình thường
Cái lạ nhất là không thấy gì lạ cả.
“Khúc Huyền ca” không kể lể dài dòng. Nó trực tiếp rung theo cảm nhận về chiến tranh một cách “lạnh” mà “đau”:
– Chiến tranh hốc hác mặt người.
– Mẹ thức lúc nửa đêm
Tro tàn cơm nguội.
– Anh tôi hút chiến trường biền biệt.
Bầy chim thản nhiên bay qua.
Rồi đến lượt nhân vật chính:
Tôi bỏ trôi số phận
Những vì sao sáng tối mập mờ.
Số phận bỏ trôi, coi số phận như những ngôi sao chẳng biết tốt xấu về đâu cũng giống như người lính trong trường ca “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương sau hậu chiến, nhận “hạnh phúc hôm nay” nhưng ngậm ngùi:
Con nhập vào với lửa
Giật mình súng đã tràn tay
Bàng hoàng biết tuổi thơ mình không về nữa
Những người cầm súng thời chiến tranh đều còn ở tuổi “nhảy lò cò bên lạch ruộng, chật vật trốn tìm nhọ nhem bùn đất đuổi theo đàn đom đóm” như cậu bé trong “Khúc Huyền ca”, vẫn thơ ngây với giấc mơ mờ sáng “không cuối không đầu“:
Khi tôi hát trong nhà thắt ngạt
Lúc vui cười nước mắt mẹ nghẹn đêm.
Và tôi ngủ mẹ ôm đêm thức
Sáng sáng tôi ra khỏi nhà mẹ run rẩy quay đi.
Ta có thể nghe tiếng khóc thầm của “Những bóng người trong sân ga” mà Nguyễn Bính ghi nhận được và có thể nghe tiếng sóng lòng của Thâm Tâm trong “Tống biệt hành” đang vỗ trên những hóa thân hy sinh của người tiễn đưa lòng và người tiễn đưa mình:
Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
… Người đi? Ừ nhỉ? Người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say!
Chiến tranh không chừa một ai. Kẻ trụ cột trong gia đình là người cha đã như không còn trên cõi đời hay đã vào chiến tranh nên chẳng thấy người cha tiễn con. Người chị trong “Khúc Huyền ca” cũng rơi nước mắt đưa tiễn em lên đường như trong “Tống biệt hành” . Chỉ có người mẹ nuốt vào lòng nỗi đau chia cắt thì giống nhau. Cảm nhận chiến tranh không thể thiếu vắng những cảnh tiễn người ra chiến trận. Cảnh tiễn đưa trong “Khúc Huyền ca” diễn ra nhanh chóng trong sự “run rẩy” của mẹ nhưng lại rất dài với người “Em” (xét vào trường hợp khác). Người “Em” trong “Tống biệt hành” còn nằm trong vòng bí ẩn là người yêu hay em gái nhưng trong “Khúc Huyền ca“, người Em này được phân vai hẳn hoi là người mà kẻ ra đi yêu thương như “hai người chia tay” trong “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn hay trong “Cuộc chia ly màu đỏ” của Nguyễn Mỹ “như không hề có cuộc chia ly”. Lời động viên không từ miệng người ở lại mà là từ trái tim biết nói của người ra đi:
Lời từ biệt cuối cùng
Trăng đã lặn
… Về đi em
Hãy dũng cảm bước đi
Can đảm em ơi
Và đừng phiền muộn
Mẹ vẫn chờ em mong ngóng đêm dài.
Trách nhiệm núi sông có phải đã rõ ràng trên vai người nam nhi? Lời từ biệt đã xuyên suốt trong hai đoạn III và IV trong phiên khúc IV.
b. Với người lao động:
Những bài thơ đi trong chiến tranh hay đi qua chiến cuộc đều hướng về một cuộc sống lao động cần cù sau chiến tranh như trong “Núi đôi” của Vũ Cao:
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ:
Ta gắng: mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!
Trong chiến tranh, người lao động canh đền, người thợ cày:
nhâm nhi giọt máu của mình
Chảy qua những dòng sông cánh đồng
Đau xót và rợn thay cho cụm động từ “nhâm nhi giọt máu”. Người ta phải tự hút máu mình để sống?! Không có từ nào diễn tả khá hơn, trào phúng chua chát hơn để nói lên sự chết chóc, nghèo khổ, điêu tàn vì chiến tranh như thế cả!
Chiến tranh trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” của Đặng Thùy Trâm, “Mãi mãi tuổi hai mươi” của Nguyễn Văn Thạc, trong thơ ca kháng chiến đã phân rõ đường ranh người chết là bạn ta thì ta đau, kẻ chết là địch thì ta coi như cho đáng đời. Vượt lên trên những cảm nhận đầy thù hận tính thì trong “Khúc Huyền ca“, Trần Anh Thái đã mang những cảm nhận đó lên thành lý tính với tư tưởng nhân bản quốc tế “Là bạn hay thù chết cũng như nhau”. Đây chính điểm sáng chói của “Khúc Huyền ca” – “Ngày đang mở sáng” nói riêng và cho tư tưởng các tác giả có tính khuynh hướng – nhân văn nói chung. Văn học đứng trên lập trường nhân bản này sẽ mãi mãi còn đất để tiếp tục sinh sôi, nẩy nở. Cần chú ý tính khuynh hướng cũng là con dao hai lưỡi.
Theo Nguyễn Văn Hạnh. “Nhưng tính khuynh hướng sẽ trở thành nhược điểm nếu như nó không phải là thôi thúc bên trong, là niềm say mê chân thành của người nghệ sĩ, mà là sự vay mượn, gán ghép từ bên ngoài, nếu như nó được lợi dụng để bù vào chỗ thiếu hiểu biết về tài năng, nhằm lôi kéo sự chú ý của người đọc nếu như khuynh hướng đó là giả dối và sai lầm” (Tính khuynh hướng, Nguyễn Văn Hạnh, trang 1740, Từ điển văn học-Bộ mới, nxbtg-2004).
Những người làm công việc “hòa âm” cho văn học nói chung và “Khúc Huyền ca” nói riêng, nếu không xuất phát từ “lòng say mê chân thành” của người thưởng thức thì sẽ đi vào con đường “sai lầm” đáng tiếc!
“Khúc Huyền ca” đưa ta về với những ngày chiến tranh bằng tính khuynh hướng của Trần Anh Thái ra sao?
2. Chiến tranh trong mắt ai?
a. Trong mắt người lính trẻ: Chiến tranh là mất mát, chia cắt, thương đau. Chiến tranh là đổ máu. “Trường ca biển” thở dài:
Quê hương đi đến đâu máu đi theo đến đấy
Máu chẳng bao giờ cũ
Khi người ra đi là cậu bé mới hôm nào còn vô tư chui cùng cô bạn chui vào ruộng ăn no nê, cười thỏa thích, bỏ trôi số phận thì hôm nay đến lượt chiến tranh… đẩy nó chạy về phía trước. Thế giới thần tiên kéo nó lùi lại phía sau có giấc mơ và con tàu cổ tích. Giấc mơ lùi xa, bỏ trống trong vòng tay mẹ. Cánh đồng lúa chờ mùa xác xơ trong đôi mắt “Em”. Giấc mơ tan biến. Bầu trời chiến tranh hiện ra:
– Đại bác rít qua bầu trời lửa, những chùm mây ám khói đạn bom.
– Ba lô sập mắt.
– Họ đi, cái chết lửng lơ, thác lũ gào sôi cơn sốt giật, bát cơm sượng sống gấp ngày.
– Con đường kiệt sức, chân bước mắt bầm, bình minh chết trong chùm mây bạc.
Chiến tranh tạo ra chiến trường. Chiến trường là nơi phơi xác bạn và ta!
Hãy cùng Trịnh Công Sơn “Hát trên những xác người” để chia xẻ cảm nhận của… thằng cu – Trần Anh Thái:
“Xác nào là em tôi trong mưa lạnh này, trong xác người già đó, con ta còn thơ ngây”. Con đường nó đi được tắm bằng đạn và máu:
– Đạn bay hỗn loạn.
– Máu ròng ròng sẫm mặt trời trưa.
– Mặt bạn tôi bê bếch chiến hào.
– Máu trộn đỏ rừng cây Quãng Ngãi
Trời Nghĩa Hành mây trôi dưng dưng.
Tác giả không ghi năm tháng cuộc chiến. Có phải là cuộc chiến Vạn Tường ở Quảng Ngãi mà bộ đội quân chủ lực quân khu V đã đẩy lùi cuộc chiến Mỹ ngày 18/8/1965?. “Nghĩa Hành“, một huyện trung du Quảng Ngãi cùng Trịnh Công Sơn “còn hai con mắt khóc người một con, còn hai con mắt một con khóc người“! Xác người nằm phơi trên rừng còn là dấu tích hai cuộc tàn xác dân của lính Đại Hàn năm 1966 và lính Mỹ năm 1969?
Thằng bé trở thành “Anh”. Cô bé đã biết “thả tóc mơ hồ, hương bay xao động“. Họ có chung “một bầu trời” khi chia tay nhau. Chúng nó đã lớn lên và trưởng thành trong chiến tranh. Anh lính trẻ này đau xót cho ai nếu không đau cho người đã chết? Ta hãy đọc những câu sau để thấy rằng anh lính trẻ sớm cảm nhận thương đau chung cho hai phía:
– Đất đồi phơi xác bạn thù.
Tiếng chim dại lửng lờ sườn núi.
– Xác người cuốn trong vòng tang xám
– Xác quân thù xác bạn gục vào nhau.
– Xác chết chồng xác chết đợi ngày…
Cảm thương thay! Ba chấm lửng kéo thời gian chết chóc thê lương chưa biết đến bao giờ! Ta và đối phương dường như còn chỉ một. Trần Anh Thái khéo kéo dựng lên hình ảnh những cái chết chồng lên nhau, gục lên nhau… thân thiết trong tư thế bình đẵng, vô tư như chưa hề biết đến những thây ma ấy đã từng nhắm vào nhau, bóp cò…
Không nhạc sĩ, văn nghệ sĩ nào có thể có bài ca nào hay mà xót như Trịnh Công Sơn với những ca khúc phản chiến lừng danh, tiêu biểu như “Bài ca dành cho những xác người”:
Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng
Trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co.
Xác người nằm bơ vơ, dưới mái hiên chùa
Trong giáo đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu
… Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh này
Bên xác người già yếu, có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy, bên những vồng ngô khoai.
Cũng chưa có nhạc sĩ nào “Hát trên những xác người” đau đớn như Trịnh. Tính khuynh hướng trong nhạc Trịnh giống như tính khuynh hướng của Trần Anh Thái trong trường ca. Ngọn đồi Eo Gió hay những ngọn đồi khác đều chất chồng xác với xác “quân thù xác bạn gục vào nhau”:
Chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người.
Tôi đã thấy, tôi đã thấy trên con đường, người ta bồng bế nhau chạy trốn…bên khu vườn, một người mẹ ôm xác đứa con.
Chiều đi ra Bãi Dâu hát trên những xác người.
Tôi đã thấy, tôi đã thấy trên con đường, người cha già ôm con lạnh giá… những hố hầm, đã chôn vùi thân xác anh em.
Họ vô tư mà chết! Họ gục vào nhau mà chết! Họ! Những kẻ hy sinh cho cuộc chiến tương tàn hay cuộc chiến chống xâm lược? Cho ai lợi ích, cho ai được lời? “Khúc Huyền ca” không khai thác khía cạnh dễ mắc “họa vô đơn chí” đó mà nó chỉ chuyên sâu vấn đề rõ nhất: Cuộc chiến nào thì cái chết cũng như nhau. Kẻ ra đi bỏ lại tuổi xanh và những ước mơ kỳ diệu cho nắng, cho mưa, cho cánh đồng lúa ngày mai màu mỡ. Người sống sót, người ở lại kinh hoàng nuối tiếc chiều qua…
Khúc IV trong “Khúc Huyền ca” của Trần Anh Thái với những xác chết chất chồng sang trang. Nó nhường chỗ cho khúc X tìm về ký ức…
b. Trong ký ức:
– Bóng người dìu nhau bê bết máu. Màn đêm lặng phắc bãi chiến trường, gió khô mặt đất. Mơ hồ co giật, tiếng gọi thất thanh, tiếng kêu cứu vớt, ròng gương mặt thời gian ám mùi bom đạn.
Những xác chết ngỗn ngang hình hài méo mó. Từng nhúm xương chấp vá vô tình đêm tối mò tìm. Căn hầm nồng nặc.
Bầu trời những vì sao tối dần, cái chết im lìm chờ cuốn ni lông đưa về đất. Thời gian rỉ máu, không gian ngột ngạt tanh nồng. Côn trùng rền rĩ.
Một ký ức lạnh giá những vì sao cô đơn. Ta nghe như “Đại Cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi còn văng vẳng nào là:
Ninh Kiều máu chảy thây trôi
Tụy Động xác chất dơ hoài ngàn năm.
… Đỏ ngầu suối máu Lãnh Câu
Đan Xá thây chất ngập sầu núi cao!
Đầm đìa cỏ nội máu đào
Cứu binh hai mặt lạy chào, chịu thua!
(Người viết chuyển thể từ văn biền ngẫu sang văn vần)
Xác người xây thành. Thây người nên công. “Xác chết chồng xác chết” đã làm nên một “đường vinh quang xây xác quân thù” ghê sợ mà “Tiến quân ca” của Văn Cao đã thành quốc ca Việt Nam!? Máu người đã đổ xuống cho hòa bình nhưng hòa bình cũng chưa thực sự trở về vì sau chiến tranh, những cuộc thanh trừng nội bộ sẽ làm cho máu người đổ xuống cho đến muôn đời! Đó là vòng Parapol toán học của lịch sử. Đó là vòng chu kỳ một chế độ. Đó là một chân lý! Một cảm nhận không trạng sư!
2. Cảm nhận trong chiến tranh:
a. Sự cảm nhận của người trong cuộc về chiến tranh đã chín mùi:
Trong “Nói nhỏ với sông Hồng“, Trần Mạnh Hảo se xót một hồi ức chiến tranh:
Những năm chiến tranh
Mỗi lần máu đồng đội tôi rơi ướt đất
Thắt ruột gan tôi lại nhớ sông Hồng
Ðêm rừng phương Nam chợt quay về phía Bắc
Thấy bên trời vệt lửa cháy thành sông.
Người lính trong “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm nguyền rủa “khi không muốn cầm súng giết người. Ta lại giết chính ta”:
Ta đã đau thương, phủ nhục, mù lòa
Nhận bị trị lằn roi vừa giáng xuống
Ta căm giận ngàn đời chúng mày, giặc Mỹ
Ta đau buồn đất nước hiểu ta không?
“Khúc Huyền ca” của Trần Anh Thái lặng lẽ:
-Những cái chết nối hàng.
– Cái chết tiễn đưa nhau.
Trận đánh kéo dài, chúng tôi phải sống
Từ lặng lẽ này, Trần Anh Thái đã nâng cảm nhận lên cao vót:
– Chiến tranh không có con đường thứ ba.
Một câu hỏi cho người, cho đời. Chiến tranh có mấy con đường? Chịu! Khi Đoàn Phú Tứ viết “Màu thời gian” thì người ta kêu lên: ”Thời gian làm gì có màu”?. Cũng như nào ai biết tình yêu có màu gì? Nhưng người ta vẫn biết những màu đen, màu trắng tượng trưng cho tang tóc chiến tranh, bất hạnh; màu hồng, màu xanh tượng trưng cho tình yêu, hòa bình, hạnh phúc. Màu hay không màu là do người tự chọn thì chiến tranh có mấy con đường tùy người đánh số bao nhiêu biết bao nhiêu. Tuổi đời ai cho bao nhiêu nhận bấy nhiêu. Hạnh phúc đưa đến thế nào, nhặt thế ấy. Câu hỏi “Hạnh phúc là gì?”của Dương Hương Ly – Bùi Minh Quốc chẳng thể nào định nghĩa được mãi cho đến bây giờ ngay khi Thanh Thảo “Thử định nghĩa hạnh phúc” và trong đầu bao thi nhân, hạnh phúc vẫn còn “treo ngược ở cành cây”!
Với Trần Anh Thái, chiến tranh có hai con đường: Sống và Chết! Hết! Cảm nhận bằng thông điệp ngữ rất hay này, Trần Anh Thái đã cho nó lập lại ở khúc X “Chiến tranh không có con đường thứ ba”.
Thực ra, chiến tranh Việt Nam nói riêng còn có thêm con đường mà người đời sau và lịch sử tha hồ luận bàn khen chê, kính phục hay phỉ báng. Đó là con đường “Đầu hàng” của tướng một sao Castries và tập đoàn chỉ huy lòng chảo Điện Biên Phủ năm 1945; của Tổng thống hàng tướng Dương Văn Minh; hoặc con đường “Bỏ chạy” như các tập đoàn tướng tá miền Nam năm 1975; con đường “Đào ngũ” của lính hai bên, con đường “Tự sát” như tướng Phú, tướng Nam, tướng Hưng, tướng Hai, tướng Vĩ… của quân đội miền Việt Nam cộng hòa và con đường cuối cùng là “Tàn phế” với những “anh thương binh vẫn đến trường làng” trong “Vết chân tròn trên cát” của Trần Tiến, với người con gái có đôi chân “đã gởi lại chiến trường” trong “Hai lần làm mẹ” của Trầm Hương. Những người này đã chọn con đường tàn phế cho ai? Cho cái gì? Ngay cả chính họ tới bây giờ cũng hiểu rõ!
Nguyễn Anh Nông trong viết dâng tặng bố chua chát:
Vết thương trong người nhức nhối hoá như không.
Bị thương, bố giữ âm ỉ riêng mình
(Người ta bị thương- người ta chia xẻ)
Nỗi đau của bố tràn sang cháu con
… Giá mà bố sống dậy
Dù chỉ một lần
Nhìn thấy…
Đồng tiền xương máu
Rồi bố đi, cũng đành
Đằng này…
Thôi, trách chi!
Con biết bố chẳng hề trách ai
(Mà trách để làm gì?)
Nhưng “Khúc Huyền ca” chẳng đi khơi dậy một tổn thương dẫn tới đụng độ “chính sách”, nó chỉ hướng về những nỗi đau cần được cảm thông.
Chỉ thế! Bản trường ca “Ngày đang mở sáng” như giấc mơ hiền hòa bao giờ cũng cần có một bà tiên xuất hiện trong cổ tích.
Người lính nào ra trận cũng có giấc mơ, cũng có “những niềm riêng một đời giấu kín, như rong như rêu lênh đênh bể khơi, có những niềm riêng một đời câm nín” mà nữ nhạc sĩ Tín Hương ngậm ngùi ghi thành nốt nhạc “Có những niềm riêng”.
b. “Nỗi niềm riêng” của người lính trẻ:
“Giấc mơ mờ sáng” vượt thoát. Hình ảnh người mẹ trong đêm “tôi ngủ mẹ ôm đêm thức” trở về với từng dấu hỏi:
Mẹ ta bây giờ đã ngủ
Nước mắt chảy khô đêm mưa rét?
Mẹ ngồi chống cằm
Chiến tranh sang bằng giai cấp, địa vị, thành kiến. Người lính trẻ nhìn kẻ thắng trận và thất trận hai phía như nhau:
Kẻ thất trận dưới chân đồi lê bước
Kéo hoàng hôn rã rời
Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc
Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau.
“Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau” hay “Nước mắt tạc vào gió thổi ngàn sau” như nhau. Câu thơ đầy hình tượng với một bức tranh được thiên nhiên khắc (tạc) vào đời sau – đời huyền thoại – và chỉ có trong huyền thoại, bức tranh đầy thương tích và nước mắt chiến tranh này mới có giá trị thẩm mỹ vĩnh cữu!
Có thể nói: Những đoạn viết về chiến tranh là những đoạn xúc động nhất của “Khúc Huyền ca” vì nó không mang những lời lẽ văn hoa phù phiếm; nó chẳng cần những lời nịnh nọt văn hoa và nhất là chẳng ngại bị quy chụp dưới bất kỳ hình thức nào. Hơn hết, những câu thơ tự do miêu tả, quan sát, nhận định, thẩm luận về cái chết đều nằm trong cảm xúc nhân bản cần phải có, mà có rất chân thật của thi ca. Kẻ nào “trộm long, tráo phụng” đánh tráo cảm xúc nhân bản của thi ca, kẻ đó là sát nhân văn học. Kẻ sát nhân loại thức nào thì bao giờ cũng trả giá cho hành động phi tính người của mình. Trong văn học không thể có “Thánh thủ thần thâu”!
Những hình ảnh và lời thơ chân thiện mỹ đó đã hướng về bạn bè: Đi tìm mộ người chết.
II. Sau chiến tranh:
Con sông, giếng nước, cây đa đầu đình chính là quê hương. Với Trần Anh Thái, dòng sông là nơi ta “thì thầm”, là nơi cho ta “ gặp những cuộc đời” và là chiếc thuyền cổ tích “chở ta về tuổi thơ im lặng”.
Nếu trong “Nhớ con sông quê hương“, Tế Hanh không nói cụ thể là con sông nào thì trong “Khúc Huyền ca“, hình ảnh con sông Vệ được Trần Anh Thái nhắc đi, nhắc lại để chỉ làm một chuyện: Nói về người chị, người mẹ và bạn bè của anh lính trẻ. Cảm nhận với anh trong tư cách như một người đồng đội, cùng hội (nhà thơ) cùng thuyền (viết về lính), Thanh Thảo viết: “Tôi hiểu: đây là cuộc chiến tranh sau chiến tranh, là mất mát sau mất mát, những nỗi đau sau những nỗi đau. Chúng ta đã cách chiến tranh 32 năm, nhưng Đình Cương hay sông Vệ vẫn còn đó, những ai cùng chia sẻ với ta những tháng ngày” (“Ta ngạt thở chờ bước chân em đi tới”- toquoc.gov.vn).
1. Sông Vệ: Nhân chứng chiến tranh:
a. Kỷ niệm buồn của người mẹ mất mát:
Đôi khi buồn quá
Đôi khi chống gậy tìm đường ra bờ sông Vệ.
Hai mắt ngây nhìn
Rừng xưa lá rụng đăm đăm
Hình ảnh buốt lòng. Câu thơ se xót. Người mẹ chẳng còn gì để bám víu hơn là “chống gậy” ra bờ sông tìm kỷ niệm năm nào! Bởi vì, chiến trường đã cướp của mẹ những người thân yêu duy nhất:
Gương mặt chồng và năm đứa con
Tàn nhang rơi lạnh
Trong “Thức dậy một mặt trời” (Trên đường), Trần Anh Thái cũng ghi lại sự ra đi vĩnh viễn của người con:
Bạn không về nữa
Chút tàn nhang héo hắt sáng mơ hồ
Trong đôi mắt mờ đục của mẹ
Đốm sáng nhỏ nhoi
Khắc khoải không màu
Ngôn ngữ thi ca “ý tại ngôn ngoại” là chỗ này với hai từ “mờ đục” thì ai đọc cũng biết nguyên nhân từ đâu. Người anh trai của người em trong thơ Trần Chấn Uy cũng một đi không trở lại là nguyên nhân cho mẹ “chống gậy tìm đường ra bờ sông Vệ” trong “Anh tôi“:
Thế là anh không về nữa
Lửa chiến tranh đã thiêu cháy anh rồi
… Anh ơi tóc mẹ bây giờ
Như ngàn lau lạnh trắng bờ sông xưa.
Những người mẹ liệt sĩ “người tóc bạc khóc người tóc xanh”, “tre già ngồi khóc măng non” này giờ đã hưởng “bổng lộc triều đình” ra sao? Còn không những người mẹ “cuốc đất trồng khoai” nuôi con đi kháng chiến trong “Bà mẹ Gio Linh” của Phạm Duy? Còn không người mẹ đào hầm giấu cán bộ trong “Đất quê ta mênh mông” của Dương Hương Ly? Còn không những người mẹ đã đứng “dưới mưa bom không ngại” để “tiễn con ra núi đồi” theo cách mạng trong “Huyền thoại mẹ” của Trịnh Công Sơn hay chỉ còn người mẹ còm cõi chờ con hun hút chiến trường trong “Gốc khế” của Lê Đạt?
Còn cha? Cảm nhận về cha trong “Khúc Huyền ca” theo cuộc chiến đi xa chẳng còn dấu vết. Còn chăng chỉ là cảm xúc khi Trần Anh Thái đứng “Trước mồ cha” để nói về cái vô vị của cuộc đời:
Đời người năm tháng mỏi mòn
Bao vinh nhục cũng chỉ còn hư không.
… Còn không bóng núi trăng ngàn
Trên mồ gió với nhang tàn ngẩn ngơ
Cõi đời cát bụi mưa mờ
Qua bao chìm nổi nào ngờ bể dâu
Còn chị? Qua tháng ngày “bể dâu” thì chìm vào “nhang tàn” ngơ ngẩn! Một trong những “Hòn vọng phu” cổ tích ngày xưa!
b. Người chị mất chồng:
Sau chiến tranh, người ta tưởng rằng cuộc sống sẽ khác đi, nhưng không, sau chiến tranh: “Hòa bình lánh mặt”. Cuộc sống ngồn ngộn những thiếu thốn không gì bù đắp nổi ngay cả một gói mì tôm của chị cũng giành giật nhau với con vật đói khát:
Gói mì tôm chuột tha đi mất
Tem phiếu nửa mùa
Bữa ăn chống đũa
Con thơ đói sữa
Ròng ròng nước mắt
Cuộc sống thời tem phiếu là thế. Cuộc sống thời kỳ cải cách là như thế! Không tươi tắn như người ta mong; không sáng trong như người ta tưởng; chẳng no ấm như người ta chờ. Màu hồng đi mất ở phương trời nao? Chân không còn toàn lỗ hổng. Ai chưa nếm qua chưa phải là người! Người chồng, người cha đã ra đi, chỉ còn con sông Vệ gợi cho chị nhớ một ký ức tiễn đưa một người đi không trở lại:
Người lính Bắc năm xưa chập chờn xanh rớt
… Anh vẫy tay bước đi
Rất xa…
Rất xa…
Xa mãi…
Lại những dấu chấm tu từ thênh thang… dẫn người về:
Nghĩa trang bên bờ sông Vệ
trắng chùm hoa dại nở quên
Sông Vệ của người chị cạn kiệt:
Sông Vệ kiệt dòng nhằng nhẵng bờ tre ngã bóng
… Chị mỗi ngày bước mỏi, bàn chân heo hắt cánh đồng
Mặt người gập đất.
Cuối cùng, chẳng ai thấy lưng còng của chị nữa, mục rõng vì thiếu dinh dưỡng, hư hao vì thiếu tình thân, co cụm vì đời đâu thẳng thốn nên thời gian lãng quên “chị tôi lẫn vào trời vào đất”. Chị không như “Người đàn bà hoá mưa” đi tìm tình yêu, tình thương của Trần Thị Thắng. Chị tôi cũng ngồi nhìn “Mùa hoa cải bên sông” của Nguyễn Quang Thiều. Chị tôi như “Những người đàn bà gánh nước sông” của Nguyễn Quang Thiều. “Chị tôi” của Trần Anh Thái như dòng sông Vệ cạn kiệt. Chị tôi của Trần Chấn Uy “như con vạc đồng quê lặng lẽ“:
Lấy chồng giữa những ngày khói lửa
Rồi anh đi B biền biệt
Chị vẫn hằng đêm đốt lửa ngóng chờ
… Ba mươi năm một mình lận đận
Chị già theo con nước đầy vơi
Thời gian ném tuổi trẻ của chị vào chiến tranh theo từng bước chân chồng. Người em ngày xưa trở về thăm chị, rụng rời:
Đâu biết được chị đã già đến thế
Tóc như hoa lau, lạnh lẽo đến nao lòng.
Chị tôi của Trần Anh Thái khác “Chị tôi” của Trần Tiến với “Mộ chị tôi bé xinh đứng bên cầu thương nhớ mêng mông. Chị ơi sao vẫn chưa lấy chồng” hay “Chị tôi” của Đoàn Thị Tảo, Trọng Đài khóc “Chị ơi rụng bông hoa gạo“. Buồn có chồng hay buồn không chồng, nỗi buồn nào hơn nỗi buồn nào? Một “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh? Một cảm thông cần có. Một cách nhìn cần nhân văn: Cuộc sống khốn khó này từ đâu mà có? Trần Anh Thái chỉ phác họa vài nét trong dăm ba câu thơ thì đã hình thành nét tính cách. Chị tôi của Hữu Thỉnh trong trường ca “Đường tới thành phố” phải cần tới 65 câu mới nói được cái ý này:
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế
Và chị buồn như bông điệp xé đôi
Bằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại.
Cảm nhận hình ảnh buồn như “bông điệp” ít se sót như hình ảnh tóc bạc trắng như “hoa lau” của Trần Chấn Uy hay nao lòng theo hình ảnh chị già theo “con nước đầy vơi” của Trần Anh Thái!
Chị tôi của Hữu Thỉnh trong đã bị bên chồng bỏ quên:
Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra
Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại
Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cui một mình
Cái hắc hủi của bên chồng khi “chị bị thừa ra” giữa họ hàng đã làm tác phẩm mất đi giá trị tố cáo chiến tranh cướp đi thời son trẻ của người phụ nữ (nét già của chị là do chị bị nhà chồng hất hủi chi phối một nửa chứ không phải 100% vì có chồng ra trận) và cũng mặc nhiên, nó đẩy lùi giá trị tích cực của thơ ca trong việc khắc họa tính dân tộc. Sống không đùm bọc lẫn nhau, khi khó khăn hắt hủi nhau, đó không phải là nét đẹp mà văn học mang tính dân tộc cần phải có!
Trong trường ca “Mặt trời trong lòng đất“, Trần Mạnh Hảo tái tạo những con người Củ Chi thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ nhau trong lòng đất. Nét tính cách đẹp đó mới là của dân tộc Việt Nam.
Nhận xét về tính cách này của văn học, Lại Nguyên Ân viết: “Tính dân tộc được bộc lộ khá rõ ở nội dung đời sống dân tộc được văn hóa miêu tả và thể hiện… những nét độc đáo về cách nhìn, cách cảm của dân tộc, tóm lại là tâm lý và tính cách dân tộc” (Tính dân tộc, trang 1739, sđd).
Trong chiến tranh, nét tính cách nhân bản như đùm bọc, bảo vệ, thông cảm, động viên… cho những người hoặc người thân họ ra trận là nét cơ bản của lịch trình phát triển tâm lý dân tộc. Đi trái những nguyên tắc cơ bản này, giá trị văn học cho mỗi tác phẩm sẽ bị triệt tiêu!
Đâu đấy theo từng cơn gió, âm vang những lời ca “trên khăn tang cô phụ, còn lóng lánh dấu ái ân” trong “Anh không chết đâu em. Anh chỉ về với mẹ đêm qua” của Trần Thiện Thanh: Một lời vỗ về cần thiết cho người tào khang ở lại dù họ là người bên chiến tuyến nào, cũng thế.
Nguyễn Du từng chen vào đời Kiều để bênh vực cho Kiều khi nàng mắc lừa Mã Giám Sinh và bị Tú Bà đánh một trận:
Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.
Giá trị nhân văn của các tác phẩm thơ nhạc này đáng đóng dấu son. Giai điệu cho ta ngậm ngùi… Lời thơ cho ta rưng rưng…
Người may mắn giữa hai lằn đạn ôm lấy hạnh phúc nào còn có thể có trong cuộc đời?
c. Sông Vệ trong lòng người lính trẻ sống sót:
Nếu biển của người lính trẻ là biển Đồng Châu thuộc huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình thì sông của anh sao lại là con sông Vệ? Sông Vệ: “Dài 90Km, bắt nguồn từ vùng núi phía Tây của huyện Ba Tơ Sông chảy theo hướng Tây Nam – Đông Bắc đổ ra biển Đông tại cửa Cổ Lũy và cửa Đức Lợi” thuộc Tỉnh Quảng Ngãi? Phải chăng là một bi kịch của những đứa con “sinh Bắc, tử Nam“?. Người lính may mắn sống sót trở về khi “chiến tranh đi qua”. Anh cũng giống như mẹ tìm con, chị tìm chồng, anh tìm về con sông Vệ – nơi đồng đội anh ngã xuống. Sông Vệ hóa thân người vuốt mắt kẻ ra đi trong trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời”:
Chúng tôi đưa Bàng, Nhu, Thư xuống khe suối cụt
Sông Vệ thầm thì vuốt mắt các bạn tôi
Đâu đây những vì sao trên bầu trời cháy đỏ
Đâu đây tiếng côn trùng day diết vòm trời
Bàng ơi, Nhu ơi, Thư ơi viên sỏi dưới chân mòn
gió thổi
Sương trắng bay ướt đẫm mé đồi
Trong “Khúc Huyền ca” cái chết không còn đếm được, không còn kịp nhớ tên. Nó thê thảm hơn nữa :
Xác chết chồng xác chết đợi ngày
Sông Vệ hai hàng cát trắng chảy vòng tang.
Người còn sống lại sống trong kinh hoàng như hai lần hụt chết:
Tôi khụy xuống bên bờ sông Vệ
Những hạt cát rã rời.
Muôn vàn ánh tím lốm đốm mắt
Hơi thở dốc kiệt
Đấy cũng chính là con sông Vệ của “má Mừng về quê cũ. Nhà không đất không“. Sông Vệ đã “nhòa nhòa sương” với “mây bay lơ lửng. Sông Vệ thẩn thờ xanh”. Có màu xanh nào lại xanh trong “thẫn thờ”? Phải chăng sông xanh vì hòa bình không còn đục ngầu máu xác nhưng dòng sông man mác tình người không thể vô tình và vì thế mà nó xanh một lần nữa trong đau thương, mất mát? Xanh đau đáu con tim của Nguyễn Du:
Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Màu xanh này của Thúy Kiều tại lầu Ngưng Bích khóc thân, ai dám bảo là xanh mơ ước?
hay màu xanh buồn thấu ruột của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm trong “Chinh phụ ngâm” cũng chẳng hơn:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Màu xanh trong thơ Trần Chấn Uy cũng tang tóc, thê lương với “người lính trở về“: “hồn nhiên nhận phần thua thiệt, ngực gầy chẳng một huy chương” đã: “Sống sót sau ngày chiến thắng“:
Anh ngồi nhìn về phía núi
Nơi ấy bao nhiêu đồng đội
Máu xương xanh núi, xanh đồi.
Con sông trong thơ Trần Chấn Uy cũng là con sông không tên với kỷ niệm có tên buốt lòng “trước ngôi chùa cổ“:
Bạn bè một thuở xóm chùa
Đứa chết trận, đứa bơ vơ xứ người.
Dòng sông buồn bã trôi xuôi
Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây
Với người lính trong thơ Trần Anh Thái, con sông Vệ trong anh xanh đau thương như một người đưa tiễn người:
Sông Vệ buồn bã chảy bên đồi Đình Cương, vết thương rỉ máu luênh loang
tiếng gọi rừng xưa run rẩy tím màu hoa.
Câu thơ rung lên như một ca khúc trở về từ chiến trường của anh lính nhỏ, may mắn thoát chết trong tầm mưa bom. Bất chợt, đâu đấy có một “Màu tím hoa Sim” của Hữu Loan rưng rưng trong “tím chiều hoang biền biệt”! Sông Vệ không giống như con “sông Mã gầm lên khúc độc hành” đầy bốc khí của Quang Dũng thời “Tây tiến” nhưng sông Mã cũng trở về nỗi man mác trong lòng người lính thị thành:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Sông Vệ không giống “Bên kia sông Đuống” ngày đêm “cuồn cuộn trôi” của Hoàng Cầm. Sông Vệ chẳng ngọt ngào như “Dòng sông mía” – Châu Giang của Đào Thắng. Sông Vệ cũng chẳng như con sông của Tế Hanh “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong “Nhớ con sông quê hương” thời hòa bình. Sông Vệ không hào hùng như con sông Hồng trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên. Nó cũng không có chỗ nhớ em như “Sông Thao” của Nguyễn Duy “thêm một lần tôi đến để rồi đi“. Nó cũng đầy hồn người như con sông Lam của Hoàng Trần Cương “âm thầm nương bóng mẹ vào đêm“. Nó man mác như “Bài thơ sông Lô” của Trần Chấn Uy “Lời xưa ai còn hát. Rưng rưng chiều Lô Giang”. Sông Vệ cũng như con sông Thạch Hãn của Nguyễn Đức Mậu “nhiều thương tích chiến tranh đến thế“, nhân chứng chiến tranh trong “Trường ca sư đoàn”:
Xin bạn cùng tôi đi dọc sông Thạch Hãn
Con sông nóng như luồng xích đạo
Qua nghìn lần pháo kích với bom rơi
Có con sông nào trên đất Việt Nam tôi
Nhiều thương tich chiến tranh đến thế
Thời hậu chiến, sông Dinh của Giang Nam trong trường ca “Sông Dinh mùa trăng khuyết” gặp lại dòng hoài niệm xót thương của con sông Vệ năm nào:
Ôi dòng sông bên bồi bên lở
Có những người đi đi mãi không về.
Sông Dinh ơi lá rừng trôi ra biển
Lá có về với nguồn cội ngày xưa?
Sau hòa bình, sông Vệ lâng lâng như con sông Tiền “Vẫn còn thức một giấc mơ” và chút ít kỷ niệm trong “Kí ức sông” của Trương Trọng Nghĩa:
Có những điều nhỏ nhặt tưởng dễ quên
Đôi khi kí ức rêu xanh cũng là nỗi nhớ.
“Sông Đông êm đềm” của Mikhai Aleksandrovich Sholokhow đã biến thành “Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Mộng Giác! Sau chiến tranh, người lính trận thả nỗi nhớ trong ký ức về con sông Vệ thì con sông Vệ trở thành nghĩa trang lạnh lùng. Ví von đau đến buốt lòng!
2. Đi tìm nơi an nghỉ cuối cùng:
a. Người lính trẻ đã trở về tìm bạn:
Con người sống có thủy có chung. Bạn bè đã đồng cam, đồng khổ thì có một chỗ ẩn trong nhau qua hết bốn mùa.
Những người lính gặp lại
Vang lên tiếng gọi ký ức
… Biển Đồ Sơn muôn nẻo tìm về
Thế nhưng:
Có bao nhiêu người không về
Người chết ở chiến trường
Người lính với dấu hỏi nhói đau trong ngực: ”Mộ bạn tôi ở đâu?”. Hình như với anh, chiến tranh đã qua lâu lắm rồi:
Tôi vạch lối vào đồi Eo Gió
Hoang phế chiến bào.
Căn hầm xưa um tùm cây dại
Bao nhiêu năm rồi không ai về đây
Âm u con đường mất dấu.
Lại một địa điểm… chết! Đây chẳng phải là Eo Gió của Đà Lạt. Cũng không phải Eo Gió của thôn Hưng Lương, xã Nhơn Lý – Quy Nhơn. Eo Gió – nơi xảy ra trận chiến giữa hai bên năm 1973. Eo Gió: “Lá chắn phòng thủ thị xã Kontum từ hướng bắc nằm ở căn cứ Non Nước và đồi Eo Gio nằm dọc theo Quốc Lộ 14, chỉ cách thị xã 6 km về phía bắc và gần hơn nửa là căn cứ Lam Sơn và ở hướng tây nằm ở cứ điểm Polei Krong và làng Trung Nghĩa, gần nơi hai con sông Dak Bla và Krong Poko gặp nhau”. (MeKong, “Hòa bình vang tiếng súng” – vietnam.ictglobal.net). Đồi Eo Gió của người lính năm xưa là đây? Từ KonTum cho đến Đình Cương phẳng lỳ lối nhỏ là nơi:
Bạn tôi chết ở đây
Đình Cương đổ chiều cây lá phủ
Mé đồi tảng đá lì rêu
Mồ bạn không dấu vết
Chơ vơ một chòm mây trắng bay.
Đình Cương đã là nhân chứng khi trở thành nghĩa địa hoang của cái gọi là “Chiến trường gần đến chiến trường xa” trong thơ Huy Cận năm 1973? Những người ngã xuống thành những cô hồn vô danh trong “Chiến sĩ vô danh” của Phạm Duy trong “chiến trường xa” nào đó năm 1946:
Ra biên khu trong một chiều sương âm u
Âm thầm chen khói mù
Bao oan khiên đang về đây hú với gió
Là hồn người Nam nhớ thù.
… Sầu hận đời lấp tan.
Gươm anh linh đã bao lần vấy máu
Còn xác xây thành, thời gian luống vô tình.
Rừng trầm phai sắc
Thấp thoáng tàn canh
Hỡi người chiến sĩ vô danh…
Những ngôi mộ vô danh tự chúng đã ghi nhận số phận hẩm hiu khác với những nấm mộ có tên, ngôi mồ có chủ như Hùng trong “Nấm mộ và cây tràm” của Nguyễn Đức Mậu:
Thôi mình đi, Hùng nhé: hãy yên nằm
Thơm rất xa theo gió thoảng hương trầm
Cây trầm đẹp như cuộc đời chiến sĩ
Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị
Thân hy sinh thơm đất, thơm trời.
Hay một người tên Thuận trong “Thuận” của Thanh Thảo: “không vô danh, thắp thêm một nén hương trên mộ liệt sĩ”.
Số phận ngược lại của những ma có tên và ma không tên là những người chiến sĩ vô danh. “Oan khiên” năm ấy đang là ma cũ đón ma mới liên tục mấy chục năm ròng trong “tàn canh” hồn hú vơi gió réo với mưa giữa “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ. Người ta bật hỏi: Chiến tranh hay không chiến tranh? Tồn tại hay không tồn tại? “Khúc Huyền ca” cùng thi ca, âm nhạc thời chiến tranh đã thể hiện tốt vai trò của mình khi dẫn chứng bằng hiện thực để nâng cao khát vọng hòa bình:
Bạn tôi chết không ngày không tên đất
Vô vàn bia mộ không tên
… Không tìm được bạn tôi
Những cái chết lãng quên
Bạn như chưa từng có…
“Những cái chết lãng quên” như những người sống cũng bỏ đi mà Nguyễn Quang Thiều trong“Hồi tưởng tháng tư” suy tư:“Chúng ta đợi quá lâu một cái chết sống lại. Những nhạc công yếu già lần lượt bỏ đi. Im lặng như chưa từng có gì sinh ra trên đất đai này”. Cũng là cái chết, cũng là nấm mộ, cũng là cảm xúc nhưng cảm xúc của “Khúc Huyền ca” lắng sâu, chẳng nhiều hứa hẹn như “Đường tới thành phố“:
Tôi xin làm cỏ ru anh
Trồng cây ơn nghĩa xung quanh hồn người
Tôi ru nhẹ bớt mưa rơi
Sương tan sơm sớm nắng trời rộ mau.
Cô động, với hình ảnh “Chơ vơ một chòm mây trắng bay“, “Khúc Huyền ca” đã nói đầy đủ ý nghĩa, bổn phận của người “ăn quả nhớ kẻ trồng cây“, không cần làm một nghĩa cử điển tích “cắn cỏ ngậm vành“!. Thơ ca với đặc điểm riêng “ý tại ngôn ngoại“: Cô động chừng nào súc tích chừng ấy khi nói đến một cuộc đời.
Mẹ, chị bóng gập mặt đất, xóa nhòa năm tháng làm người, “bạn như chưa từng có” cũng như em bé Tà Ôi chưa từng hiện hữu trong đời. Ba thế hệ này đang từ từ đi vào quên lãng! Cuộc đời không có khai sinh cho họ. Chiến tranh đã xóa hết lý lịch trích ngang của họ. Họ không có thật! Chỉ có con số O hiện hữu là có thật trên đời!
Thanh Thảo trong bài “Ta ngạt thở chờ bước chân em tới” (toquoc.org.vn) viết về con sông Vệ của Trần Anh Thái: “Tôi hiểu: đây là cuộc chiến tranh sau chiến tranh, là mất mát sau mất mát, những nỗi đau sau những nỗi đau. Chúng ta đã cách chiến tranh 32 năm, nhưng Đình Cương hay sông Vệ vẫn còn đó, những ai cùng chia sẻ với ta những tháng ngày”.
Không ai muốn chiến tranh. Chiến tranh là phương thức duy nhất để giải quyết vấn đề khi bế tắc nhưng nó cũng là phương thức thấp hèn nhất, dã man nhất của con người khi tự hủy diệt nhau. Những nhà văn, nhà thơ nhân bản trên thế giới đều hướng về một ước mơ khi nói về chiến tranh. “Giã từ vũ khí” (A Farewell to Arms) của nhà văn Mỹ lừng danh Ernest Miller Hemingway (Nobel văn học 1954) không hẹn mà gặp “Một mai giã từ vũ khí“, một ca khúc rung động trái tim người lính dù bất cứ tuyến nào về hai mặt đền ơn sông núi và mong ước cuộc đời lao động hiền lương của nhạc sĩ Trần Nhật Ngân (Trịnh Lâm Ngân):
Trả súng đạn này, ôi sạch nợ sông núi rồi
Anh trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nao
Vui cùng ruộng nương, cùng đàn trâu
Với cây đa khóm trúc hàng cau
Với con đê có chiếc cầu tre
Ðã bao năm vắng chân anh
Nên trở thành hoang phế rong rêu
… Rồi anh sẽ dìu em tìm thăm
Mộ bia kín trong nghĩa địa buồn
Bạn anh đó đang say ngủ yên
Xin cám ơn ! Xin cám ơn ! Người nằm xuống.
Lời “cám ơn” chân thật như thế đủ nghĩa cử cuộc đời, không cần hứa hẹn “làm cỏ, làm cây“, làm chim, làm hoa, làm bướm lượn quanh người chết! Thi, ca nhạc với ngôn từ không chọn lọc, thiếu ẩn dụ mà thừa ngoa dụ trong việc thể hiện cảm xúc vẫn là những lưỡi kiếm sắc lạnh chẻ đôi sợi tóc của “vô tình kiếm khách” văn chương!
Lại Nguyên Ân trong “Ngôn từ nghệ thuật” (trang 1091, sđd) đã nêu: “Tiêu biểu cho ngôn từ nghệ thuật là sử dụng liên tục chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ, do chỗ nó có nhiệm vụ thể hiện ý đồ của tác giả…việc sử dụng tỷ dụ, ẩn dụ v.v…đều trở nên có tính tự trị tương đối, có giá trị thẩm mỹ riêng.”
Chiến tranh đã qua, đang có hay sẽ tới thì vẫn bấy nhiêu cảm nhận, bấy nhiêu ân tình tiềm tàng, ẩn hiện hay lộ thiên tùy vào khả năng rung động khi cầm bút của chính tác giả. Người làm công việc đệm đàn hay viết hợp âm cho thơ chỉ có thể dựa vào những máu thịt có sẵn của thi ca mà thêm chút tiêu hành ớt tỏi. Rất có thể làm cho người đọc rưng rưng… . Rất có thể mang lại nụ cười một chút gì cảm thông, một chút niềm tin từ trái tim mình thắp sáng hy vọng cho nhau. Đó cũng chính là nét nhân bản.
b. Nét nhân bản hiếm hoi:
Cuộc đời lắm phen dối trá. Cái ác được thể nẩy sinh. Trong “Đường tới thành phố“, Hữu Thỉnh một phen bừng tỉnh:
Mẹ ơi , khi con đau đớn nhận ra cái ác là vô cùng
Cũng là lúc con nhận ra sự hữu hạn của lòng tốt
Mảnh ván con bơi là lòng tốt cuối cùng
Trên thế gian đầy bất trắc
Những “bất trắc” đời thường như con virut ăn vào từng mái ấm gia đình của Lê Đạt trong“Cha tôi“:
Cuộc sống hàng ngày nhỏ nhen tàn bạo.
Rác rưởi gia đình miếng cơm manh áo
Tàn phá con người.
Những mơ ước thời xưa như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng.
Còn Hoàng Nhuận Cầm một tay phủi áo quân trường, vừa ngao ngán thế cuộc:
Như cánh chim trong mắt của chân trời
Ta đã chán lời vu vơ, giả dối
Nguyên nhân cái “giả dối” và cái ác? Đấu tranh với cái ác cũng chính là một trong những nét nhân bản vì cái ác triệt tiêu thì con người mới có chuỗi ngày yên lành. Nét nhân bản hiếm hoi thật nhưng không phải không có trong những người lính niềm Nam trong “Ta lính miền Nam” của Trần Hoài Thư:
Ta trở về giáp mặt chiến tranh.
Đồi cháy lửa mặt trời nhuộm lửa.
Thau rượu đế mừng ta thằng lính sữa.
… Đứa gốc người Kinh, đứa Nùng, đứa Thượng…
Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẫng.
Trong túi ta một gói chuồn chuồn.
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm.
Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm.
hay vẫn có trong người lính Bắc khi đối diện với tàn cuộc của cái ác chiến tranh:
Bó hoa sim tôi hái
Héo rũ bên mồ
Chân nhang vừa qua
Khói bay côi cút.
Rõ ràng, hồn ma bóng quế đã không cô đơn dù người lính chiến thắng dùng từ “côi cút”. Họ vẫn được người bộ hành qua lại thắp nhang. Không tìm được mộ người thân thì mộ người chưa quen cũng coi như là quen biết. “Không đánh thì không quen”, không sống thì sao biết lòng mình đã chết? Khóc người cũng là lúc khóc mình!
Chiếc giếng cạn ngày xưa
Giờ là nấm mồ chín người lính ngụy.
Mồ chôn tập thể là một bằng chứng cái ác của hai bên đối địch và lòng nhân ái của con người mà lịch sử thường vô tình đi sau nỗi đau với nhiều lý lẽ khác nhau có thể là mù mờ để biện minh cho hành động đã rồi trong quá khứ. Trên thế giới, những vụ giết người tàn bạo lập thành tội danh diệt chủng từ thời đế chế Turkey (Thỗ Nhĩ Kỳ), thời kỳ Nazi Germany (Đức quốc xã của Hitle), thời kỳ Cambodia under the Khmer Rouge (Campuchia dưới thời Khờmeđỏ), Irag thời Saddam Hussein, Sudan diệt Darfur và Pakistan…
Tại Việt Nam, vụ thảm sát làng Mỹ Lai – Quảng Ngãi năm 1968, thảm sát Mậu Thân năm 1968, mùa hè đỏ lửa năm 1972, thảm sát Tân Lập 1975… với thêm những mồ chôn tập thể tại Quảng Trị hay Bình Dương hoặc khắp mọi nơi trên dọc đường đất nước nhất là đường Trường Sơn mà nhạc sĩ Trần Chung trong “Bài ca Trường Sơn” đã than thở: “Trường sơn ơi trên đường ta qua không một dấu chân người. Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác”. “Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô” của Lưu Trọng Lư trong “Tiếng thu” chắc cũng cùng con nai vàng của Trần Chung làm bạn với những nấm mồ vô chủ không tên. Nhắc để làm gì? Câu hỏi này dành cho người trong cuộc!
Những nấm mồ vô danh ấy có thể là chôn vội vàng, có thể là lấp cho xong. Có thể là ta. Có thể là địch. Có thể là ghét. Có thể là thương. Chung quy lại, thương ghét, hận thù đều kết thúc bằng “Nhất đái công thành, vạn cốt khô”! Thái độ chính trị hai bên có khác nhưng nước mắt và nỗi đau người thân, người ở lại đều không thể khác. Người chết không đòi hỏi công lý nhưng kẻ giết người đều phải chịu trách nhiệm trước công lý dù là kẻ “ngoại xâm” hay là người “anh em”. Không phân biệt. Trần Đăng Khoa bỏ súng, cầm cân nẩy mực kiên quyết “trừng phạt” một chiều trong “Trường ca Trừng phạt”:
Phải trừng phạt. Chúng tôi đòi trừng phạt
Những kẻ đã gây ra tội ác!”
Phải! Phải trừng phạt! Hừng hực lửa từ trong tiểu thuyết “Crime and Punishment” (Tội ác và trừng phạt) của Fyodor Dostoevsky? Nhưng ai là người trong sạch thì hãy ném đá vào người đàn bà có tội này? Người đàn bà ngoại tình đã không bị ném đá vì lời xử phạt thông minh, đầy tính Người của Chúa Giêsu! Nhưng hỡi ơi! Khi không còn Chúa nữa thì người đàn bà kia bị ném đá cho tới chết! Xây dựng nhân vật hung ác trong văn học là nguy hiểm vô cùng vì cái ác, cái xấu là những cái dễ bắt chước nhất. Ta có thể hiểu vì sao bây giờ có những bé con đã trở thành “sát nhân”, “hiếp dâm” vị thành niên? Chúng ở ngay trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư… Chúng là sát nhân trên học đường ở Mỹ! Chúng là nạn nhân thời đại văn minh… tiền sử!
Người lính ngụy trong “Khúc Huyền ca” cũng là những nạn nhân chiến tranh. Họ là những con tốt trong một ván cờ chỉ có nước thắng hoặc thua mà không thể huề! Ai từng “học đánh cờ” đều thí tốt chết sạch! Lính ngụy hay lính Ngụy? Danh từ này ở đâu ra? “Bách khoa toàn thư” (vi.wkippedia.org) định nghĩa: “Lính Quốc gia, hay lính Việt Nam Cộng hòa hoặc lính Cộng hòa, là các chiến sỹ thuộc Quân lực Việt Nam cộng hòa, họ còn được gọi là lính ngụy bởi phe đối địch bởi phe Việt cộng”. Họ cũng chết như nhau chứ đâu có phải lính nào được viết hoa thì đạn tới họ thì đạn… dội ra:
Những cái chết vô danh không tên không địa chỉ
… Một vì sao vụt tắt xa mờ
Người lính “bộ đội cụ Hồ” trong “Khúc Huyền ca” duy nhất đã không coi họ là kẻ thù, không dùng từ ngữ rẻ khinh người chết như văn học trước và sau hậu chiến đã dùng. Người lính Bắc gọi người lính Nam đã chết trận là “Anh” – một sự tôn kính tối thiểu đối với kẻ khuất mặt và nhất là những kẻ biết hay phải hy sinh trên bàn cờ thí chốt. Những người lính không phải ai cũng đều tự nguyện. Quân nhân tới tuổi nghĩa vụ, họ xung phong, tình nguyện vào quân đội để thử nghiệm đầu mình tứ chi hay lục phủ ngũ tạng trong sơ cấp ba đến chín tháng quân trường hay thực thự ba năm quân ngũ, hoặc họ bị đẩy ra trận, bị ép ra trận để “Nhất định thắng” cũng chẳng phải là không có cho mỗi quân đội mỗi quốc gia. Đó là một hiện thực không thể tránh né. Văn học phản ánh hiện thực dù là hiện thực tươi như cá biển mới bắt hay đen thui như đêm ba mươi. Chủ yếu là cách giải quyết vấn đề hiện thực mình nêu ra trong tác phẩm của mình có lợi hay có hại cho lợi ích dân tộc và văn học không thể dung chứa sự phản bội niềm tin con người!
“Chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi – bên cạnh tính chân thực của các chi tiết – tái hiện chân thực những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình… Chủ nghĩa hiện thực gắn với tinh thần dân chủ“. (Lại Nguyên Ân, Chủ nghĩa hiện thực, trang 281, sđd).
Hoàn cảnh điển hình ở đây là người lính tìm mộ bạn sau chiến tranh. Những cử chỉ, những cảm nghĩ của họ là biểu hiện tính cách sơ khai của dạng thi, thơ trường ca. Trường ca cũng là tác phẩm tự sự. “Tinh thần dân chủ” của tác phẩm sẽ được nhân vật của tác giả tạo thành.
Mẹ các anh ở đâu
Em gái các anh đâu
Câu hỏi của “kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc” rớt vào hư không. Thanh Nam trả lời hộ cho “kẻ thất trận“:
Ta như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa…
Lời thơ kẻ thất trận đã“kéo hoàng hôn rã rời“! Họ không còn tư cách đại diện cho đoàn quân Vi-king (chiến thắng) mở cõi. Vậy mà “Mặt đường khát vọng” căm thù cực độ: Thằng Mỹ vào thì xác mà để đấy! Thằng nguỵ vào thì xác nó đừng chôn!”. Mãi cho đến nửa thế kỷ, những người lính đã chết này mới lấy lại tư cách của con người dù đã chết. Cuối cùng, một nghĩa cử cao cả của người lính thắng trận để lại bên đời:
Tôi thắp một nén hương
Tàn nhang quẩn một vòng tròn trống
Hòa bình rồi, nếu ai có “nghĩa cử” cao đẹp ấy thì khi nào có dịp hãy tới nghĩa trang Biên Hòa xã Bình An, Huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương để “thắp một nén nhang” cho người lính anh em da vàng máu đỏ hòng xóa tan “lòng thù hận ngút trời” vì “sông núi bao nhiêu năm tách rời” mà ca khúc “Giải phóng miền Nam” của Lưu Hữu Phước vang lên trong mỗi tiết chào cờ thời chưa thay quốc ca chung. Người quân tử lấy độ lượng cảm hóa người. Kẻ tiểu nhân lấy “lượng” mà độ… người! Lòng nhân hậu cuối xuống cảm thông. Dạ người ác nhìn lên ngoe ngẩy. “Chiến tranh không có con đường thứ ba” chỉ có thể là Ta và chỉ có thể là Địch. Nhưng một chân lý sinh ra từ trong cái chết: Những người đã được chết trên trận địa là anh hùng! Không phân biệt kẻ thắng hoặc thua!
HenRy Grantland Rice (1880-1954), nhà hoạt động sáng tạo nghệ thuật Mỹ đã nói: “It’s not whether you win or lose, but how you play the” nghĩa là vấn đề không phải là thắng hay bại mà là ở phong độ.
Thử nghĩ, Saddam Hussein bị công lý Irag treo cổ là đúng tội nhưng người ta nhìn thấy trực diện một cái chết thê thảm nháy mắt như thế không khỏi không bùi ngùi. Tình người là thế! Kẻ ác khi sống ăn gan mổ bụng người nhưng khi chết, người lại đứng với con mắt rưng rưng… Kiếp người thoáng qua như mưa sa, như tuyết đổ! Không nguyền rủa người chết thêm sau khi họ chết, đó là phong độ quân tử! Người lính trong “Khúc Huyền ca” của Trần Anh Thái qua hình ảnh anh lính thắng trận đã có “phong độ” khi thắp nén hương, khi nhận định về cái chết:
Cái chết sinh sôi mù tối kiêu căng tham vọng mê cuồng
Máu vẫn rơi mặt đất tanh nồng dục vọng
Vinh danh người nằm xuống, là ai, bạn hay thù đều thể hiện“phong độ” nhân bản như nhau. Trịnh Công Sơn vinh danh họ trong “Cho một người vừa nằm xuống” nhưng thực ra, cho tất cả những ai cầm súng cho một lý tưởng, một mục tiêu (taget) nhất định:
Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây, đã vui chơi trong cuộc đời này đã bay cao trong vòm trời đầy.
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai, không có ai, từng ngày,
không có ai đời đời ru anh ngủ vùi, mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi!
Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn.
Đất ôm anh đưa vào cội nguồn
…Anh nằm xuống, như một lần vào viễn du
Đứa con xưa đã tìm về nhà
Đất hoang vu khép lại hẹn hò
Người thành phố, trong một ngày, đã nhắc tên
Những sớm mai, lửa đạn, những máu xương chập chùng
Xin cho một người vừa nằm xuống thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang.
Không lời thật nào hơn thế nữa ngay cả dùng trong chiến tranh Irag lúc này! Những cái chết đưa con người về với cảm nhận khác nhau trên đối kháng nhưng giống nhau ở một kiếp người. Tư tưởng nhân bản đó đã đưa con người lại gần với nhau hơn. “Khúc Huyền ca” một lần nữa lại đi theo khuynh hướng này của tác giả.
Cảm nhận của anh lính thắng trận ngậm ngùi trước những đớn đau đã lên đỉnh cao:
Phía trước cánh đồng
Mơ màng đỉnh khói
Vĩnh cửu những giấc mơ không kết thúc mở đầu
Sự đối lập những tinh khôi, thơ ngây, đẹp đẽ, không giai cấp mọc lên trên những máu xương người hy sinh:
Những chùm hoa dại trắng tinh trên vết máu chiến hào
Những hy sinh vô danh đó trôi theo thời gian chiến tranh và “thời gian làm mờ kỷ niệm”. Không ai sống mãi với những kỷ niệm đau buồn. Cuộc đời cần có điểm tựa, con người cần có hy vọng. “Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn nguyền rủa bóng tối” để “cho một người vừa nằm xuống thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang”: Lời kết rộng mở về thế giới không giai cấp, không hận thù. Thế giới này, nó chỉ có khi ta trở về cát bụi mà thôi!.
Nhà thơ Trần Ninh Hồ với “Giá trị đích thực của thơ: Sự trong trẻo” trả lời phỏng vấn của tuoitre.com.vn nhận định: “Trần Anh Thái làm phong phú tinh thần của người lính. Thơ anh không chỉ có khung cảnh của chiến trường, thao trường, mà còn có hình ảnh của cả một vùng quê cảm động và đáng nhớ của riêng anh. Thơ của Trần Anh Thái có thể trở thành hành trang của người lính”.
Xét theo giá trị nhân bản, bản trường ca “Ngày đang mở sáng” hay “Khúc Huyền ca” của Trần Anh Thái hòa âm với những bản trường ca khác cùng khuynh hướng, cùng giá trị thẩm mỹ nhất định mãi là gia tài của văn học – dòng văn học không biên giới về sức sống mãnh liệt của con người với tính tư tưởng đậm nét thời đại.
Nguyễn Xuân Nam viết: “Các tác phẩm ưu tú trong văn học thế giới đều mang đậm tính tư tưởng: nỗi đau và niềm vui của con người trên đường đi tìm chân lý, đi tìm lý do tồn tại của mình, khát vọng muôn đời về tự do hạnh phúc, cuộc đấu tranh cho cái đẹp và những ước mơ con người” (Tính tư tưởng, trang 1743, sđd).
“Khúc Huyền ca” có hay không có những “khát vọng muôn đời về tự do hạnh phúc” hay “ước mơ con người?. Có hay không có, chẳng thể nào tùy tiện ai cho mà bản thân tác phẩm tự nó có tiếng nói riêng của nó bằng ngôn ngữ thi ca, như một bản tình ca có riêng 7 nốt nhạc của nó. Tiếng nói tư tưởng vượt thời đại chính là nêu bật sức sống mãnh liệt của con người.
D. Sức sống mãnh liệt của con người:
I. Vươn lên từ nỗi thống khổ:
1. Người mẹ: Trong trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời“, Trần Anh Thái tái tạo hình ảnh người mẹ của một thời 45: Thời gần 2 triệu người chết đói:
Mẹ như chiếc phao không bến
Trái na già vỡ vỏ giữa cơn giông
Vầng trăng gẫy trên đầu ngọn sóng
Vệt sáng đắng cay mặt cát đổ dài
Bước chân cao thấp với trời
Người chết nghẹn đường năm đói
Đông Hoàng, Đông Trung, Đông Xuyên, Thánh Giám
Máu vẫn đỏ đất đến hôm nay.
Trong khúc III, “Khúc Huyền ca” một lần nữa đưa người về với “mảnh đất im lìm tầng tầng máu đổ“:
Đêm chợt vọng bốn chiều người lam lũ úp mặt vào bờ ruộng
Cũng giống như lúc “Hết chiều”:
Đêm úp xuống lưng – người úp vào bóng tối
Tiếng thở dài trút mặt đất đai.
Trong đó có người mẹ. Xuất hiện từ khúc I, người mẹ “ra đi trong sương khuya mò bóng” với “cơn đói mờ run, khát bàn tay lạnh” nhưng người mẹ ấy vẫn bám lấy một niềm tin để sống chính là “ngọn lửa xa xôi trong mắt con thơ“:
Run rẩy vịn qua tháng năm gầy mòn yếu ớt
Trách nhiệm buộc người mẹ này phải sống. Trong chiến tranh, mẹ Suốt, mẹ Tơm của Tố Hữu, mẹ đào hầm của Dương Hương Ly, người mẹ huyền thoại của Trịnh Công Sơn hay mẹ trong truyện ký của Nguyễn Thi tự bản thân phải trở thành “Người mẹ cầm súng” vì lòng căm thù đánh giặc. Người mẹ trong “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh lặn lội trên đồng ruộng nuôi con đi lính giải phóng:
Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng
Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió.
Riêng người mẹ trong “Bình minh của mẹ” của Trần Chấn Uy vất vả trên đồng ruộng vì không còn ai để nhận lấy trách nhiệm này:
Gánh nỗi nhớ thương người con trai chết trận
Hai mươi năm chưa tìm được nấm xương
… Gánh từng cơn ho người chồng già đau ốm
Sống hắt hiu như một đốm lửa tàn.
Gánh “trăm nỗi lo toan, một đời cơ cực”, người mẹ ấy đáng cho ta kính phục vô vàn! Người mẹ trong “Mẹ và quả” của Nguyễn Khoa Điềm cũng cần cù lao động với trái bí, trái bầu “Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn nhỏ xuống lòng thầm lặng của mẹ tôi”:
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng.
Người mẹ của Trần Đăng Khoa trong “Hạt gạo làng ta” vẫn phải xuống đồng trong những tháng ngày thiên nhiên khắc nghiệt:
Những trưa tháng sáu.
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ.
Cua ngoi lên bờ,
Mẹ em xuống cấy.
Chính vì thế, trường ca “Trầm tích” không ngoa dụ khi ca ngợi người mẹ của mình:
Mẹ là trầm tích của làng quê hoa trái
Cất giữ mọi giấc mơ rồi có mặt trên đời
Mẹ là trầm tích của bạt ngàn thương mến
Xanh mát màu trời đượm ấm hương quê
Người mẹ trong “Khúc Huyền ca” của Trần Anh Thái cầm cuốc, cầm cày không vì chồng đau nhưng cũng vì chồng, con chết trận, vì con còn thơ dại. Hoàn cảnh nào cũng đáng thương tâm. Thơ ca biến những thương tâm ấy thành “ngọn lửa” dù là “lửa đom đóm” của Thi Hoàng, Nguyễn Đức Mậu, dù một “đốm lửa tàn” của Trần Chấn Uy, dù chỉ là lửa “đom đóm tóm nhom” của Hoàng Trần Cương, dù chỉ là “nhóm lửa“, dù chỉ là “ngọn lửa xa xôi” trong “Khúc Huyền ca” thì Trần Anh Thái vẫn thắp sáng lên một ngọn nến trong tăm tối bão bùng. Đóm lửa không đủ sức căm thù. Ngọn lửa chỉ đủ lóe tia hy vọng cho đời. Đó cũng chính là giá trị nhân bản của thơ ca khi thắp ánh nến giữa bầu trời đen. Nó là sức sống mãnh liệt của dân tộc. Những ngọn lửa hừng hực trong các trường ca của Thanh Thảo “mặt trời lặn sâu trong nước để bùng lên đám lửa dữ dằn” cũng bén ngọn từ đốm lửa xa xôi này.
Sau chiến tranh, trong khúc X, cô bé ngày xưa của “thằng cu” đã lấy chồng trong nỗi khổ chung của chiến tranh, của cơ chế chính trị mới nẩy sinh trên sự đói nghèo:
Không thạo bán buôn
Không biết lấy tiền
Lương tháng vợ chồng tối nào cũng kiểm
… Hà Nội đông người con cá mớ rau
Cơ quan trốn giờ về lo xếp hàng
Âu mỡ để dành vô tình làm đổ
Cả tháng nhịn ăn năm sau còn tiếc
Cuộc sống ở Hà Nội sau chiến tranh là như vậy! Thời thử nghiệm một thể chế mới! Thể chế bao cấp. Thể chế mà tuổi thơ trước khi cầm súng cần phải “hiểu vì sao ta bớt giấy in thơ. Để in phiếu đường, phiếu thịt” ?! mà Hữu Thỉnh hồi ức trong trường ca “Đường tới thành phố”. Mắm không đủ ăn thì ăn cái gì cho đủ chất dinh dưỡng nuôi con khi “Em” ”bụng chữa xanh xao chín tháng mười ngày”? Nhưng nghèo khổ chỉ là bước dự lệnh của người thổi còi cho vận động viên: “Vào chỗ, sẵn sàng…” còn động lệnh: ”Chạy!” mới là sự vươn lên từ cái đói nghèo. Má Mừng trong khúc II cũng thế, mượn tạm cái gì đó là “mở đài thật to” để “nhớ một tiếng người, một giọng nói” để mà bám víu, hồi sinh:
Má bới ngày
Hạt rơi héo đất.
Con người cần lao động để kiếm sống. Má Mừng chẳng thể nhờ đến ai hay không còn ai để nhờ? Tất cả vì sự tồn sinh. Muốn sinh tồn phải đấu tranh. Đấu tranh với đồng khô cỏ cháy. Đấu tranh với nửa phần sau của đời mình đứng lên khi nửa phần trước đã còng xuống cũng là một hình thức sinh tồn lương thiện.
Cô gái ngày xưa của thằng cu đã làm mẹ. “Khúc Huyền ca” lại có thêm một người mẹ trẻ vượt lên trên nỗi khổ “Màu da xanh rớt gầy nhoẵng tháng ngày. Như dấu hỏi khắc vào trời vào đất” để bước vào “động lệnh”… chạy vì con:
Đêm bừng sáng nụ cười con trẻ
Căn phòng giấu một ban mai hé sáng ngày ngày
Nhưng khác với người mẹ lao động trên đồng, người mẹ trẻ này đã vì con mà lao vào con đường không lối thoát của những âm thanh từ quán bar với “nhịp điệu Roch mạnh. Ánh đèn quay cuồng không phanh không số”:
Em ngồi đêm thao thức
Bóng tối dày mãi lên
Dây xích tím bầm hai tay em
Cột giấc mơ vượt thoát
Vô vọng với “Bàn tay không. Đêm ngã qụy”. “Nụ cười con thơ” đã vực em dậy “Em chống tay trên đất vụt đứng lên” để hóa thân vào kiếp sống khác “Em buông tóc gội đầu sạch sẽ“. “Thành phố lạ” sau thời chiến mở ra cho một lớp người phụ nữ với một cái nghề khác, không thiện chung! Còn đâu người phụ nữ trẻ trong “Thăm lúa” của Trần Hữu Thung:
Mùa sau kề mùa trước
Em vác cuốc thăm đồng
Lúa say hạt nặng bông
Thấy vui vẻ trong lòng
Nhịp sống thời đại thay đổi.Thời chống Pháp lùi xa. Thời chống Mỹ đi qua. Con người ta thay đổi nhân sinh quan kéo theo thế giới quan của thi nhân đổi thay. Hiện thực của những cô gái thị thành bắt đầu quay cuồng theo cơn lốc khỏa thân hóa đô thị, mại dâm hóa nông thôn. “Khúc Huyền ca” lao theo nó, kéo nó về. Vô vọng cách này thì bày cách khác.
Ta có thể so sánh một cái nghề bán bar với hai mục đích khác nhau: Bán trôn nuôi con, bán trôn nuôi miệng hay bán trôn cho thỏa cơn nghiện mà luận bàn giá trị đạo đức! Không nhìn thấu được mục đích của hành động, con người sẽ mất hết tính người! Giải quyết và gỡ nút cho hành động nhân vật là trách nhiệm của tác giả.
Với người mẹ, má Mừng hay người chị, Trần Anh Thái đã giải quyết cho họ trở lại kiếp sống con người đấu tranh sinh tồn tại trên mảnh ruộng, mảnh vườn, dòng sông quê hương. Đó là cách tốt nhất so với đấu tranh giành giật đòi công lao hạng mã của gia đình thương binh, liệt sĩ, hay gia đình có công cách mạng! Chính cách lựa chọn cao thượng này, tác phẩm với chức năng văn học sẽ có tác động giáo dục nhận thức cho thế hệ sau.
Theo Nguyễn Xuân Nam: “Văn học viết cho người đọc… Khi xem xét chức năng của văn học cần có cái nhìn tổng hợp và có quan điểm lịch sử cụ thể” (Chức năng văn học, trang 309, Từ điển văn học- bộ mới, nxbtg-2004).
Quan điểm lịch sử cũng chính là tính khuynh hướng của tác giả. Ta hãy xem đối tượng là người mẹ trẻ sẽ được Trần Anh Thái, nói đúng hơn, nhân vật tác phẩm – người lính sống sót sau chiến tranh giải quyết như thế nào trong bản trường ca XI khúc, tác giả dành nguyên khúc thứ IX gồm 7 khổ cho người “Em” lạc bến xa bờ này?
2. Khát vọng hình thành từ nỗi thống khổ:
Thằng cu sau chiến tranh, nó đã trưởng thành. Nó: Một người lính vừa thắng trận trong cuộc chiến phân tranh Bắc – Nam. Nó: Một người đàn ông (Anh) không có cách nào khác hơn là chỉ có bổn phận nâng đỡ người ngã quỵ (Em) vì “trật đường” :
Em cuối mặt bước đi
Dấu chân mòn cũ
Vô định con đường rêu.
Đôi khi trật đường sợi dây xiết chặc
Em vấp ngã lả người
Nước mắt ròng gương mặt xinh
… Em trốn chạy ngược chiều
Không có ai dìu em đêm khuya khoắt
… Lại một đêm nữa em không về
Nam tử hán, đại trượng phu ở đời với câu“kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” đã ăn trong máu nhưng người lính trẻ trong “Khúc Huyền ca” chẳng giống chàng lính quê Nguyễn Bính “Hành phương Nam” với “giầy cỏ gươm cùn” . Thằng cu – “Anh” lại cuống cuồng chạy tìm “Em” trong đêm vì lòng thương người, vì tấm“chân tình“, vì thời gian không làm mờ kỷ niệm:
Tôi chạy qua những hàng cây
…Tôi chạy qua cánh đồng tới những dòng sông
Cổ họng rát khô cơn khát
… Tôi chạy qua ban mai
Tia nắng nung xối xả mặt đường
…Tôi băng qua khu nhà
…Vô cảm tiếng cười vô cảm ánh nhìn nhau
Sức mạnh nào vực anh chạy theo người lầm lối ngoài “chùm sao hôm run rẫy nâng bước chân”? Đó chính là “bầu trời ký ức“. Nó có sức mạnh của tuổi thơ cùng kỷ niệm ngày nao khi kỷ niệm là tất cả khi lòng ta muốn ghi. Kỷ niệm không là gì khi lòng ta muốn xóa:
Hoa bưởi trắng dịu dàng
Tiếng ếch ran lạc nhịp
Anh chạy đi, gọi mãi khát họng:
Tôi tìm em
Quán bar nhà hàng ngột ngạt
Tìm không ra “Em”: “Không thể nào tìm thấy em” giữa “những bước chân dẫm vào nhau vội vã”. Có thể anh không thấy em. Có thể anh không thể nào “nhận” ra em khi em từ cô gái có “ánh mắt kín đáo mơ màng“, “có đôi môi hứng khởi thẹn thùng” đã làm “đêm đóng cửa vẽ gương mặt em trong trái tim tôi khi ấy” thành một trong những “pho tượng câm lộng lẫy màu sơn”? Thất vọng theo hai nguyên nhân chưa hóa giải thì nỗi lo lắng lại như tảng đá đập giữa ngực:
Ai dắt em qua đêm nay?
Câu hỏi từ đáy lòng bật ra: “Đi về đâu hỡi em khi trong lòng không chút nắng. Giấc mơ đời xa vắng. Bước chân không chờ ai đón”? trong “Đời gọi em biết bao lần” của Trịnh Công Sơn và nỗi lo của người trong cuộc “Đêm nay ai đưa em về” với Nguyễn Ánh 9. Họ không hẹn nhưng cùng nhau gặp trong trường tư tưởng cảm thông. Trần Mạnh Hảo đã “Hoán vị” rất sâu sắc:
Tim mình trong ngực người ta
Tim người ta đập rung da thịt mình.
Tức là sự đồng cảm. Bất cứ loại tình cảm nào, nếu thiếu sự đồng cảm thì tình chẳng có tri âm, nghĩa chẳng còn tri kỷ. Trong thời hiện đại, những cô gái lầm đường vẫn cứ sinh sôi nẩy nở trong cái nghề “bán trôn nuôi miệng, ăn diện hằng ngày” ngày càng thịnh hành ở Việt Nam – một đất nước đang vươn lên cố bắt kịp nhịp sống lành mạnh, cung cách văn minh, cử chỉ lịch lãm của thế giới. Kêu gọi người về từ “động Bàn Tơ” là một nghĩa cử biểu hiện sự đồng cảm. “Về thôi hỡi em” của Duy Mạnh là một điển hình:
Tôi vẫn thấy em đứng đó mặc cho sương gió đọa đày
…. Màn đêm đã buốt giá, em lạnh lẻo bước trên con phố khuya
Đi về đâu, nỗi cô đơn, hằn trên đôi mi thâm quần
…. Thời gian vẫn còn đó, em hay quay về đi
Rời xa những ngày tháng đam mê trong tội tình
Niềm vui nơi ngày mới với ước mơ tươi đẹp chờ em đó hãy quay về đi em hỡi!
Hỡi ơi! Khi nào còn những con bạc “triệu đô” của ông bà lớn, của các cô cậu ấm thì dù tổ tiên dòng họ bốn mươi mốt đời anh có réo kêu “về đi thôi hỡi em” như bầy quạ khàn giọng giữa trời bao la thì em làm sao mà từ bỏ con đường… tươi thịt thắm da đẻ ra đô la anh hỡi! Dù sao, “tiếng gọi ngàn” vẫn cần có cho nhau trong địa ngục trần gian này. Giá trị nhân bản chính là đấy!
Cô gái ví mình “thuyền em rách nát” trong “Tiếng hát sông Hương” của Tố Hữu năm 1938 ngày nao với:
Ngày mai em sẽ sạch trong tới ngoài
Thơm như bông nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng
… Ngày mai trong nắng trắng ngần
Cô thôi kiếp sống đày thân giang hồ.
đã lùi vào dĩ vãng! Vì có dùng vợt cá vớt em ra thì em cũng giãy đành đạch tự nguyện chui vào chốn giang hồ “địa ngục vô môn, gái nhảy… tầm” này! Trước đó, Vũ Hoàng Chương – con ma men trong “Say đi em” (trong 100 bài thơ hay nhất thể kỷ) cũng ngã ớn theo từng gót chân giang hồ:
Bước chân còn nhịp.
Nghê thường lẳng lơ.
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm, não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
…. Lui đôi vai, tiến đôi chân,
Riết đôi tay, ngả đôi thân,
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ,
Chẳng còn chút ý thức về bản thân. Không ý thức được bản thân mình, con người khác nào con vật! Nhưng ước mơ dù có tan như bọt sóng, thất vọng cuộn héo tháng ngày cũng không làm ta ngã qụy. Đây mới là giá trị sức sống mãnh liệt của con người. Trong “Cha tôi“, Lê Đạt vực mình đứng dậy nếu “Những mơ ước thời xưa như con chim gẫy cánh. Rũ đầu chết ngạt trong bùn. Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng” thì nên nhớ:
Đau thương kiên quyết làm người.
Không nên lùi bước cuộc đời phải thắng.
“Khúc Huyền ca” tràn ngập nắng, gió, hoa và ánh mặt trời hoán vị với đau thương, thay thế những cánh đồng cỏ cháy, đổi chỗ cho nghĩa trang lòng. Chiến tranh đi qua để lại vết thương. Cuộc đời tang thương khắc vào lòng vết sẹo. “Những vết sẹo biết tự mình phát sáng” kỳ diệu như trong “Người cùng thời” của Mai Văn Phấn. Thương tích của thằng cu ngày cũ hay của “Em” đã hòa lại thành “nước mắt tạc vào thế kỷ nghìn sau“. Thằng cu đã tự vực mình đứng lên trong ý chí “cuộc đời phải thắng” bằng khúc II.
3. Tự vá vết thương: Vết thương thật thời chiến và vết thương tu từ thời hậu chiến hình như trường ca nào thời chiến hay thời bình cũng đều bị chém lằn ngang, lằn dọc.
Vết thương trong trường ca “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh là vết thương thật của người thủ trường: “Hai vết thương vì rừng, ba vết thương vì pháo“. Còn trong “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, vết thương của Kiên đã trở thành vết thương chiến tranh đồng nghĩa với ”mảnh bom còn trong đầu” ông Tạng cụt tay như trong trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời” của Trần Anh Thái:
Ông Tạng còn mảnh bom trong đầu đang trưa
cày ruộng
Bỗng quay cuồng sấp ngửa tối đen
Đôi lúc ông ngồi thở dài đếm huân chương gói trong
ba lô còn hoen vết máu.
Với “Trầm tích“, Hoàng Trần Cương với những vết thương nhân hóa, ẩn dụ từ “gió chém, mưa đâm“:
Cạnh đá sắc còn hằn nguyên vết chém
Dấu tích tháng năm buồn
Nghèo khó cắn xé nhau
Con đi qua những địa tầng mưng máu
Gặp những hình nhân rỗng tim
Gặp những trung thần chết đứng
Gặp những vương triều xô nghiêng chính sử
Bây giờ hoai rữa hư không
Vết thương lịch sử rồi còn gì? Vết thương “mưng mủ” này từ đâu mà có? Từ chiến tranh, từ cuộc đời đầy dối lừa, từ số phận những trung thần nghĩa sĩ chết oan, từ những kiếp sống mong manh thì “Khúc Huyền ca”:
Làm sao có thể bay lên
Hái nụ hoa e ngại
Những tảng đá già nua cũ kỹ chắn đường
Bàn chân rướm máu
Con đường
Tôi lặng lẽ lau khô thương tích
Thương tích từ “những tảng đá già nua cũ kỹ”. Cụm danh tính từ hàm ẩn sâu sa một sự phê phán. Những tư tưởng lạc lậu? Những khối óc hủ hậu? Cây đa giếng nước đầu đình. Lệ làng cũ kỹ mới sinh sự bần. “Tảng đá chắn đường” trong “Khúc Huyền ca” lại không hẹn mà gặp với “tảng đá tóc kê” của Thi Hoàng trong “Trình bày” (Bóng ai gió tạc) bức xúc khi phải làm con vẹt trong lồng:
Bớt hôi hám đi những khoảng nín câm
Ta đã chào người lạ
Dưới chân tóc kê rất nhiều tảng đá
Miệng ao đầm gọi dạ bảo vâng.
Mượn hình ảnh ẩn dụ trong những trường hợp này dễ dính cái mũ sắt để “an toàn giao thông” trên đường văn học như Trần Dần có một “tảng đá” trong “Nhất định thắng” nhưng dành cho quân thù chứ nào dành cho… phe ta:
Anh gạch xóa trang thơ hằn nét mực
Bỗng mắt anh nhìn thấy! Lạ lùng thay!
Tảng đá chặn đường này!
Muôn triệu con người
Muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!
mà vẫn bị đồng chí mình chụp mũ… bỏ tù. Tố Hữu trong “Tiếng chổi tre” từng mượn cây chổi của chị quét rác để quét “những lá vàng rơi nghẽn lối tương lai”! Rồi cái chổi của ông mượn lại “quét” ông bay ra khỏi thế giới “trộn lẫn những trò chơi ích kỷ đóng băng” để làm bạn với… chiếc lá nghẽn đường! Một bài học nhớ đời. Sinh nghề tử nghiệp! Không có những bài học trường đời, con người không thể khôn ra!
Khôn lanh, sắc sảo thêm chút… quỷ quyệt như Trần Mạnh Hảo mượn cái ngông của Hồ Xuân Hương, mượn cung hình của Tư Mã Thiên, mượn ngòi bút Đỗ Phủ và chén rượu Lý Bạch… để nói lên khí phách của mình nhưng khi “Ly thân” với cái “ta” để hóa thân “tôi” vào “Nguyễn Trãi trước giờ chu di” thì mắc… vạ mình vì hình ảnh ẩn dụ “con đường” và “bàn tay” độc đáo:
Con đường nào cũng dẫn đến pháp trường
Bàn tay chỉ đường nào cũng bàn tay đao phủ?
… Sao phép nước dùng dao chém đại thần
Để chém trẻ sơ sinh ?
Mai sau lấy gì chém sông núi ?
Đúng hơn “mai này lấy gì chém nịnh thần rửa oan cho sông núi?”. Câu thơ sâu sắc như thế, trào lộng đến thế nhưng hễ “trung ngôn nghịch nhĩ” ắt lọt lưới cá lòng tong trong “100 bài thơ hay nhất thế kỷ“??! Buồn thay! Con người Việt Nam đói nghèo vì chiến tranh, vì những “tảng đá” rêu phong cũ kỹ nhưng sao lại có thể nghèo nàn văn hóa đến nổi chỉ có 100 bài thơ hay mà lại chẳng hay, đọc xong mới thấy đi cày thú hơn! Hú ba bàn chín trụi cho dòng họ Trần: Trần Dần, Trần Mạnh Hảo, Trần Chấn Uy, Trần Anh Thái… vì nếu lọt vào thì vạ miệng không lo mà lo bom chữ nghĩa văng đầy mình mang thêm họ Trần Văn Trụi!
Con người không ai chẳng có một lần lầm lỗi. Lầm lỗi không phải tội tử hình. Trần Anh Thái mong vượt qua “tảng đá già nua cũ kỹ” để được đích thân hái một nụ hoa tặng em mà khó quá! Trong “Ngẫu cảm“, Thi Hoàng thử nhắc khẽ:
Bông hoa đẹp mê hồn
Nở kề bên ngọn thác
Với ra hái tuột chân, người phải lòng hoa đã chết
Có pháp trường nào xử bắn một bông hoa?
Trần Anh Thái chẳng cần vặn vẹo như Trần Mạnh Hảo, cũng không lý lẽ như Thi Hoàng, mà chỉ nhẹ nhàng với hình ảnh “tảng đá già nua cũ kỹ“. Già nua thì nhẳn bóng, rêu mọc tùm lum, êm cho cái… bàn tọa cuộc đời của những ai thích ngồi lâu! Ca ngợi công lao của tảng đá này đấy thôi! Nhưng đá ơi! Nhường qua chút cho ta hái một “nụ hoa e ngại” tặng cho em. Dĩ nhiên, lễ phép như thế, nhã nhặn như vậy, thằng đá này mà không dịch qua chỗ khác, tao làm… con mày!
Những viên đá chắn đường lịch sử? Những dây gông xiềng trói lấy ước mơ? Vậy thì cùng nhau “vượt thoát” khi đôi chân da thịt con người đá vào cho “bàn chân rướm máu“! Ngu! Biết đá cứng đá vào ăn đá mà vẫn đá, biết đá là tươm máu mà vẫn… chơi, mà không đá thì chẳng có cá để ăn cơm! Thành ra, phi thường ở chỗ dám nghĩ và dám làm, dám đo và dám đá! Tầm thường ở chỗ chỉ “giám – dám đốc” nói dóc mà chẳng dàm làm! Lãnh vết thương là cái chắc!
Vết thương từ khúc II sang khúc III thật sự đã bật máu:
Thương tích hằn thế kỷ
… Vết thương bết máu
Mảnh đất xác xơ chiếc áo vá nhì nhằng
Cơn gió tựa vào vòm cây bật khóc
Người bị tước đi dòng máu tinh khôi
Giam hãm vào trò chơi viên mãn dối lừa
Vết thương từ sự lừa dối? Người cùng gió cũng kết quả như nhau, tựa vào nhau hay tựa vào vòm cây cũng chỉ làm được một điều: “Bật khóc”! Một thời Tố Hữu kêu gọi “Liên hiệp lại” đã phê phán những tính từ chỉ thuộc tính con người:
Khóc là nhục, rên hèn, van yếu đuối
Và dại khờ là những lũ người câm.
Trên đường đi như những bóng âm thầm
Nhận cay đắng mà gởi vào im lặng.
Nhưng Xuân Diệu đã “dại khờ” thận trọng, kinh nghiệm trên con đường “êm ái quá ai đi mà nhớ ngó. Đến khi hay gai nhọn đã vào xương”.
Đường êm ái là cái bẫy tương lai. Kết quả: “không lui được nữa” là hậu quả của những kẻ có tính tự mãn. Là thất vọng đó thôi! Là chịu mất mát khi bị dối lừa đó thôi! Ai đã dối lừa ai? Thơ không là bài toán nên làm sao có đáp số cho người? Như thế là thơ vẫn muôn đời đánh đố người! “Khúc Huyền ca” lẫn vào vòng bí ẩn trốn mùa gió bấc đang thổi lạnh vào bầu trời “Hà Nội – Một thời xa” của Lê Văn Ba! Đời cần có nước mắt. Mừng vui, hối hận, hoan hỉ, tang thương không thể thiếu vắng. “Khóc cho vơi đi những nhục hình. Nói cho vơi đi những tội tình”! Dòng nhạc Ngô Thụy Miên sẽ cùng cơn gió của thằng cu xúm vào mà… khóc cho… vui!. Thơ và nhạc luôn cùng tuyến giữa mộng và thực xoa dịu vết thương không tự tạo cho đến muôn đời!
Thương tích người bị dồi lừa sang khúc IV thành vết thương lịch sử vĩnh viễn:
Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc
Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau
Thương tích này sang khúc IX lộ rõ ra là vết thương của “Em”. Té ra, ta hay em cũng đều “ăn mẻ” hết:
Vết sẹo cũ tái đau rỉ máu mặt hiền
… Em xịn thuốc vá vết thương ngày xưa
Có thể vết thương nghèo khổ vì chiến tranh? Có thể là vết thương vì cuộc đời bất hạnh? Chòng chành quá, “Em”! Khó hiểu quá!
Giống như “Vết thù trên lưng ngựa hoang” trong “Chiến tích” của Duyên Anh làm cho kẻ chiến thắng ê chề:
Ngựa về vết chém ngang lưng
Ủ ê chiến tích, rưng rưng chiến bào.
Vết chém ngang lưng hay vết chém từ “một nhát dao phạt ngang hai nửa cuộc đời” của Lực trong “Cỏ lau” của Nguyễn Minh Châu đều mang một sắc thái tu từ ẩn dụ như nhau. Còn trong “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, vết thương của Kiên đã trở thành vết thương chiến tranh đúng nghĩa.
Thất vọng xã hội và chán chê danh trường! Những kẻ bất đắc chí, chẳng gặp thời đều có cách nhìn ủ ê như thế cả! Không làm gì hơn! Tư tưởng trèo cây thông giữa trời rét của Nguyễn Công Trứ hay ngạo nghễ như Tú Xương cũng chính là “bất phùng thời” này!
Vết thương của thằng cu hay đúng hơn của Trần Anh Thái từng theo dấu chân người :
Dấu tuyết khô còn lạnh
Trận chiến xưa thương tích chưa lành.
(Trên đường)
Người thương tích. Cánh chim qua nhân hóa cũng như người:
Tôi bay qua giấc mơ
Cánh chim ướt qua mưa mù thương tích.
(Trên đường)
hay con chim bay qua cánh đồng cũng ăn đạn: “Con chim bay thương tích giữa cánh đồng”, và đến cây cối cũng cùng số phận :
Cây dừa dập bầm
Vết đau ngày tháng
Thi Hoàng với “Mở cửa” khi “Những lời đã trượt ngã tìm cách đứng dậy trong miệng mình” cũng bị vết thương muối xát:
Muối nơi vết thương thổi kèn mặn xót
Ánh sáng nhuận tươi tứa ướt miệng mình.
Ngô Thế Oanh trong “Học theo các nhà thơ cổ” không tự vá nữa, lôi mẹ vết thương ra, cầm chơi:
Vết thương nào tự âm thầm
Đã không giấu nữa xin cầm trên tay
như Xuân Diệu một thời ngông, “đánh em đau”, không ngắm ngửi mùi hương mà nhào tới… bẻ đầu hoa xuống… ngửi chơi!.
“Khúc Huyền ca” với những vết thương đời tự vá, tự lành cũng giống như vết thương “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm với các vết thương lòng “Nhân văn – Giai phẩm” cũng tự lành khi tự vá! Ôi chao! Thơ ca là những bản nhạc sầu nếu không có nó thì hồn người nào biết gởi về đâu! Thì ra, sự dối lừa của chiến tranh là nguyên nhân thứ nhất. Chiến tranh là cách để người ta giải quyết vấn đề sinh tồn, để trời kịp trút cơn mưa sau những tháng ngày nắng hạn. Vậy mà, sau chiến tranh, những người lính của Trần Đăng Khoa vẫn mãi “đợi mưa trên đảo sinh tồn”! Những con người vẫn còng lưng úp mặt dưới ruộng. Những giấc mơ không có chỗ để bay cao! Chiến tranh lừa dối người. Hòa bình không thành thật. Cuộc sống chẳng nhân tâm.
Những nụ cười phấn khởi trên môi của người lính trên “đường tới thành phố” biến mất. Tiếng “con tu hú gọi mùa” của Tố Hữu đi tong. Nó nhường chỗ cho tiếng cuốc kêu thời bình như chúng đã từng kêu trong chiến tranh. “Tiếng cuốc kêu đói lả cánh đồng” của Trần Anh Thái trong “Khúc Huyền ca” là khóc đói, còn tiếng cuốc kêu của Hữu Thỉnh trong “Nghe tiếng cuốc kêu” là khóc bị dối lừa:
Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc
Chúng ta đã từng vỏ võ đợi nhau
Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế
… Tôi cứ tưởng không còn ai xấu nữa.
… Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
Bị hư danh gạt về một phía
Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười.
Vừa bắt gặp nụ cười
Thì lại nghe tiếng cuốc.
Thanh Thảo lật ngược sự lừa dối trong “Thử nói về hạnh phúc”:
Chúng tôi không muốn chết vì hư danh
không thể chết vì tiền bạc
Chúng tôi xa lạ với những tin tưởng điên cuồng
những liều thân vô ích.
Thi Hoàng cũng chẳng thua chi khi dặn mình cân nhắc “nửa câu trước cuối xuống, nửa câu sau ngẩng lên” nhưng nào có mắng chửi ai đâu, chỉ là con cái hờn mát sắc nét: “Văn hóa là con dâu. Chính trị là con rễ“. Trong dân gian, người ta… thật như đùa: “Dâu hiền là dâu heo nái. Rễ thảo là rễ ó ma lai”! Làm biếng và rút ruột. Thế là đi tuốt luốt những chén cơm trắng những con cá tươi. Ước mơ nằm trên “cái thớt” của Trần Mạnh Hảo! Kẻ cầm con dao nạp hắn chạy từ Bắc vào Nam, suýt bỏ mạng nếu không có cái thớt thay thế cái khiên của người lính thời cổ đại chống đỡ! Thi Hoàng tiếp tục phê phán trong “Lại theo đuổi tự nhiên – Mở cửa” (Cộng sinh với những khoảng trống):
Chính quyền tà quyền chính quyền tà quyền
như con lắc độc tài rồi dân chủ
Kẻ chỉ lo kể công, sắm giầy dép cho mình
Người thật lòng mở cửa tính đường đi.
Vậy mà, “chính quyền tà quyền” nào đó coi tiếng đàn Bá Nha này như “đàn gảy tai trâu“. Thành ra, Thi Hoàng nhận giải thưởng ào ào, không có vết thương nào từ thằng tà quyền chém để lấy muối ớt xát chơi! Thế mới ngộ! Ấy mới nói giày dép, áo quần còn có số huống hồ con người không có số sao đẻ bố những thằng tham? Sao có kẻ ngồi chính giữa lộng vàng cho kẻ bần hàn lạy trước, lạy sau? Sao “có kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra” mà ca dao cay đắng thế!
Khúc cuối cùng của bản trường ca, Trần Anh Thái một lần nữa cô động ý tưởng dùm cho Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Hữu Thỉnh, Thi Hoàng:
Không có vùng ánh sáng nào đặc quyền
Chúng ta bị dối lừa trong lời tụng ca rối rắm, giấc mơ vấy đục
Gã hề lăng xăng sàn diễn u mê.
Nhà triết học, chính trị nổi tiếng thời Minh – Trung Quốc, Vương Dương Minh (Wang Shouven) từng dạy học trò trong “Vương Văn Thành công toàn thư”:
Làm thầy thuốc lầm thì giết một người.
Làm thầy địa lý lầm thì giết một họ.
Làm chính trị lầm thì giết một nước.
Làm văn hóa lầm thì giết một đời.
Nguyễn Anh Nông khóc trên vết thương xương máu của bố:
Đồng đội bố, nào ai người đưa tiễn?
Nào ai người nằm lại chiến trường xưa?
Ai đào ngũ giờ yên lành mây trắng?
Ai an nhiên?
Ai thanh bạch?
Ai dối lừa?
Ai? Ai? Ai? Điệp ngữ hỏi này cong lại thì “Khúc Huyền ca” trả lời bằng một kết cấu nghệ thuật với ba dấu chấm than duỗi thẳng: Ngày! Ngày! Ngày! Bản hợp xướng “trật rơ” lại ăn ý ví nhau rồi còn gì! Tư tưởng lớn thường gặp nhau là vậy! Vết thương hai nghĩa từ đấy mà ra! Hiển nhiên, chẳng riêng một Trần Anh Thái can đảm “dùng cán bút làm đòn xoay chế độ” mà Chế Lan Viên một thời hực lửa cách mạng kêu gọi văn sĩ, nhưng ngóc đầu dậy hết cả câu thơ thì “Khúc Huyền ca” đi tiên phong. Còn dùng dao khắc trên đá như “Lời mẹ dạy” thì nhường cho của Phùng Quán!
Chiến trường không lãnh vết sẹo thì hòa bình lĩnh vết thương lòng. “Hòa bình giấu mặt” là vết thương lòng của người chị có chồng chết vì chiến tranh trong “Khúc Huyền ca“. Thằng cu đi lính về cũng mang vết thương lòng thời cuộc. Hạnh phúc đi hoang. Thế giới thần tiên tiêu tán đường! Vậy thì, “Khúc Huyền ca” cần có một kết cục vượt thoát cho từng nhân vật cũng như từng số phận của nhân vật trữ tình của mình.
Nhân vật trữ tình là “Thuật ngữ chỉ hình tượng nhà thơ trong thơ trữ tình, một trong những phương thức bộc lộ tư tưởng của tác giả. Nhân vật trữ tình là kẻ song sinh ‘đồng dạng’ với nhà thơ – tác giả; được hình thành từ văn bản của kết cấu trữ tình (một chùm thơ, một tập thơ, một trường ca trữ tình), như một dáng người có đường nét rõ rệt, hoặc một vai sống động; như gương mặt có tính xác định số phận cá nhân, có đường nét tâm lý của thế giới nội tâm, và đôi khi có cả đường nét tạo hình. (Nhân vật trữ tình, Lại Nguyên Ân, trang 1254, sđd).
Song sinh với Trần Anh Thái là… thằng cu, là người lính sống sót, là nhân vật “tôi” hình thành từ khúc I. Tự mình vượt thoát, tự mình vá vết thương, tự mình đứng lên làm lại cuộc đời cho mình, cho người, cho đời là một cách giải quyết tốt nhất khi không có con đường lựa chọn nào khác hơn. Đấy là nét tiến bộ trong tư tưởng nhân văn trong một bản trường ca ca ngợi sự sống: “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng”!
Từ thuở còn thơ, thằng cu đã có những ước mơ đẹp đẽ đầy huyền thoại về những con thuyền, những con tàu và ước mơ ấy bao giờ cũng đi với… mầm sống của nó: Đó là cô bé ngày xưa “Em”.
3. Giấc mơ con tàu vũ trụ, thuyền cổ tích:
Khi con người cùng đường bí nẽo, họ vẫn mượn cổ tích có bà tiên với chiếc đũa thần úm ba la thay công lý, trừ bạo cường để giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Khi với mà chẳng được cái gì tới tay thì người ta lại quay về với ước mơ, có thể với “Harry Potter” – cậu bé phù thủy của nữ văn sĩ JK. Kowling làm những chuyện chỉ có trong… sách! Thằng cu trong “Khúc Huyền ca” thả hồn về thế giới tuổi thơ cất ước mơ trong con tàu bằng… giấy từ khúc I:
Tôi hào phóng tung những con tàu cất giấu trong mơ
Bay mãi mãi về phía mặt trời bí ẩn.
Ước mơ trẻ thơ dẫn tới trò chơi học trò trong khúc II:
Tôi lục lọi cặp sách của mình tìm tờ giấy trắng
Con tàu trinh nguyên phóng lên khoáng đãng cánh đồng
“Con tàu” chỉ là giấc mơ hay đúng hơn là trò chơi nghịch ngợm phá giấy vở của tuổi học trò. Con tàu mang ước mơ về chân trời nào đấy chỉ có trong mơ. Con thuyền chở ước vọng cho người về hiện thực. Nếu con tàu là mộng thì con thuyền là hiện thực. Giữa hai cái thực và mộng, tha hồ cho người giày cỏ gươm cùn, xanh áo lính tha hồ mơ mộng, tha hồ phóng đãng và tha hồ lĩnh… sẹo!
Hoàng Nhuận Cầm ray rứt, hối hận với “con tàu” của mình trong “Viên xúc xắc mùa thu“:
Toa thứ ba ôm cặp ai nức nở
Suốt đời anh mang tội với con tàu.
Đây, con thuyền mơ của thằng nhỏ phá giấy vở năm nào khi phóng con tàu mộng bay lên mây xanh:
Tôi bí mật vào nơi cất giấu con thuyền thả về cổ tích,
khát vọng bập bềnh thế giới vô biên.
Sang khúc II thì con thuyền kia đuối hơi:
Con thuyền nhỏ trôi mờ
Giấu lời ca vào sóng
….Tôi mệt mỏi bỏ rơi con thuyền trên cỏ
Đến khúc III thì con thuyền không còn người lái như số phận bị thả trôi:
Ngoài kia trôi dạt con thuyền
Con thuyền mộng của nó trở thành con thuyện hiện thực của người lao động. Ý thức về số phận con người lớn dần theo tháng năm:
Mưa đã đến
Người kéo chài giương buồm chèo thuyền về bến
Con thuyền nhập vào thuyền ẩn dụ của thằng cu – người lính trận – và bạn nó trong khúc V:
Tôi và bạn con thuyền trôi dạt
Bạn với tới cõi người
Tôi nổi chìm dâu bể
Con thuyền – ẩn dụ về số phận con người trong và sau chiến tranh:
Biển đã cạn
Con thuyền khô treo lưới
Con thuyền của Nguyễn Ngọc Phú trong “Đám mây màu vảy cá” cũng… về hưu non:
Chiếc thuyền nan úp mặt vào ngơ ngác
như vỏ cau khô nhớ tiếc một thời trầu.
Không còn đất dụng võ, người mãi võ quăng kiếm. Chẳng còn thỏ để săn, con chó buồn chủ bỏ. Hết chim cho ná bắn, chiếc cung nhện giăng sầu. “Điểu tận, cung tàn“! Chất cay đắng rất hay, nét ẩn dụ rất mới, Hữu Thỉnh trong “Nghe tiếng cuốc kêu” than: “Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi” nhưng trong đời Hữu Thỉnh, hình như mùa hoa ngày nào trong “âm vang chiến hào” vẫn nở tươi tốt hơn bao giờ hết! Nhưng người bình văn là người tiếp sức cho tác giả ở chặng đường cuối cùng. Người viết là người hòa âm ca khúc trước khi cho ca sĩ hát. Vậy thì hãy chạy cho nhanh, hãy hòa cho nhuyễn để sản phẩm văn học đến với người đọc có chiều hướng tốt đẹp nhất, trong sáng nhất.
Cách hiểu thứ hai mở khóa: Nghèo khổ vẫn đeo theo từng số phận con người dù trước hay sau chiến tranh vẫn thế, không gì sáng sủa hơn. Đời điêu tàn nên uớc mơ vượt thoát. Quân tử hoài bão chí lớn mơ kiếm cung, phàm nhân mong sao cái bụng no ấm, mong lúa gạo.
Con thuyền trong văn học đã thành hoán dụ cho số phận con người. Thuyền cũng như em, như ta, như chúng ta, như tổ tiên ta trôi qua biển bờ nghiệt ngã:
Giông bão đổ
Con thuyền phơi bốn mặt
(Trở về)
Sau tiếng đập rộn ràng ánh ngày soi tỏ
Con thuyền trôi xa lạ bến bờ
(Tokyo)
Thằng cu – Anh – Người lính – nhân vật Tôi, vượt thoát, khoắc khoải bên bến tàu trong khúc cuối cùng:
Tôi ra bến tàu
Địa Trung Hải một màu đen huyền thoại
Vách núi in chin chít bàn chân
Tôi mơ con thuyền
… Những con thuyền ra đi
Những con thuyền không bao giờ trở lại
Con thuyền trong “Nhớ nhà thơ Xuân Diệu” của Trần Chấn Uy khác giá trị ẩn dụ, càng lận đận hơn:
Anh – con thuyền tình vượt cạn
Đi hết cuộc đời mình mà không có bến để buông neo
Ước mơ vượt thoát, tự do, hòa bình, cơm no, áo ấm là ước mơ chung của nhân loại. Một tình yêu nung thế kỷ giá băng hình thành. Thằng “Tôi” đánh thức giấc ngủ “Em” đã quên trong khúc X:
Thức dậy em ơi
Hãy bước lên thuyền giong buồm ra biển cả
Sức sống mãnh liệt vượt lên trên nỗi bất hạnh của cuộc đời. Hạnh phúc không nằm chờ người đến dắt tay đi. Hạnh phúc nằm trong xích xiềng. Tháo bỏ nó, hạnh phúc là niềm kiêu hãnh vượt thoát. Bản trường ca giấc mơ an lành ba chấm lửng ngân dài…
Ta sẽ đợi cho dù đêm nay đêm mai và ngàn ngàn đêm tới, sẽ cùng em xuống con thuyền khát gió trùng khơi.
Cuối cùng cho một tình yêu. Tình yêu là sức sống mãnh liệt mang ta qua những cay đắng cuộc đời. Triết lý tình yêu từ lâu đã có: Không tiền người chẳng thành tiên, không tình, người mới điên điên khùng khùng. Ngẫm nghĩ… hay! Không thành tiên thì thành người cũng sống như… con người. Không thành người mà thành điên điên thì dở sống, dở chết! Những nhà thơ Trường loạn – Trường loạn điên của “Bàn thành tứ hữu”: Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên, đúng hơn là “Trường loạn ngũ tướng” khi có thêm Bích Khê, họ đã từng sống như thế. Thiên, Địa, Vân, Vũ, Thảo, Phong, Tuyết, Nguyệt hay Hỉ, Nộ, Ái, Ố và Tham, Sân, Si muôn đời là chất liệu của thi ca dù theo nhóm nào, trường phái nào cũng thế!
4. Hoa Xuyến Chi và “Em” với khát vọng cháy tim:
Nếu trong “Khúc Huyền ca” có biển Đồng Châu đầy sấm chớp báo hiệu ngày chẳng lành, còn con sông Vệ trở thành khu nghĩa trang u buồn thì hoa Xuyến Chi xuất hiện ươm lại cho người niềm tin mong manh. Người gái mang giấc mơ mong manh của anh đi tìm cuộc sống thứ hai sau chiến tranh chính là cô bé cùng thằng cu ngày xưa mò vào vườn hái trộm dưa. Kỷ niệm đẹp đẽ, ngây thơ như một khúc phim tìm về giấc ngủ bình yên trong khúc II:
Hoa Xuyến Chi chập chờn
Gối đầu lên giấc ngủ
Cơn khát bay về những chân trời
Lãng mạn và hồn nhiên quá! Lòng ta cũng nghe… xuyến xao một tình yêu thơ ấu hôm nào…
Bình yên như “giấc ngủ nàng tiên dũng sĩ” của Dương Hương Ly giữa “vườn thưa xanh nắng thưa, gió hiu hiu hát mát thân dừa” một thời chiến tranh, giấc ngủ hiền hòa trong “vườn hoang Trinh nữ khép đôi cánh sầu” mà Huy Cận đã ru trong “Ngậm ngùi“. Ở đây, hoa Xuyến Chi báo hiệu một sự đổi đời với “cánh đồng hoa mào gà đỏ rực“, hòa bình trong khúc III đã như hiện hữu mà hiện hữu trong… mơ:
Hoa Xuyến Chi trắng muốt cánh đồng, dòng sông bình yên ru qua ngôi làng nhẹ khói sương. Hương sớm thơm tóc em lấm láp mùa màng.
Đâu đây loáng thoáng hương của nàng thơ vương rơm trong “Làm bếp” của Xuân Diệu và nghe thoang thoảng mùi “Hương cau-Bếp lửa” của Bằng Việt trong những “ngày lặng gió”
Hạnh phúc đang từ từ thẩm thấu nguyên cả trong khúc I. Khúc tình ca tuổi thơ:
Tôi băng qua cánh đồng
vượt biển Đồng Châu tới cồn cát nhỏ
Em đứng đợi từ chiều
Chiếc hộp giấy đựng bầu trời
Vỏ sò và ốc biển
Cánh diều và con tàu khát gió
… Đôi môi hứng khởi thẹn thùng
Sẽ cùng tôi yên tĩnh dưới mặt trời dịu nắng.
Một thế giới thần tiên thơ ngây lấp lánh dưới mặt trời mở cửa. Tuổi thơ lãng đãng trong địa đàng vỏ ốc sò! Trời! Giá mà thời gian quay ngược! Chỉ tiếc rằng bầu trời yên tĩnh đã trôi xa…
“Em” xuất hiện trong khúc II là bản tình thơ thì trong khúc III là bài ca dang dở:
Lời từ biệt cuối cùng
Trăng đã lặn
Em xỏa tóc mơ hồ
Hương bay xao động
Mùa thu ngời mắt em
Chiếc khăn tay vẫy lên thay lời chia tay nghẹn ngào. Lời chia tay của cô gái “giấu một cành hoa trong chiếc khăn tay” trong “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn. Lời giã biệt của Thâm Tâm trong “Tống biệt hành” khi em gái “gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay“? Chiếc khăn tay và ẩn ý sâu sắc của tình cảm thường biểu hiện như thế cả trong những cuộc chia tay “màu xanh” hay “cuộc chia ly màu đỏ” cũng vậy. Trong “Khúc Huyền ca”, Trần Anh Thái có ý tượng trưng khác: Hòa bình trên chiếc khăn tay:
Chiếc khăn tay này
Đàn chim đang bay
Em hãy thả chúng lên
Và đừng e ngại
Nhưng hoa Xuyến Chi không xuất hiện trắng muốt cho người giấc mơ an bình nữa mà là biển Đồng Châu thay tiếng chim báo bão:
Về đi em
Mưa sắp đổ phía Đông Hoàng
Biển Đồng Châu sấm chớp
Ngày không may sẽ đến. Đêm chẳng lành sẽ lại. Chiến tranh!
Một khát vọng trào dâng khi có “Em”. Tình yêu chắp cánh cho ta qua từng ngày. Thắm thía một tình yêu hy sinh vì chiến tranh, trường ca “Mặt trời tronh lòng đất” của Trần Mạnh Hảo đắn đo và thật nhiều suy nghĩ:
Ngôi sao kia còn tìm đôi để mọc
Một vầng trăng góa bụa ở ven trời.
Vậy mà chúng cũng mang đến cho người một sức sống mãnh liệt cùng ta qua từng ngày như sắc cỏ mùa thu. Thanh Thảo trong “Những dấu chân qua trảng cỏ” thể hiện một sức sống vô hình:
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên.
“Dấu chân nho nhỏ” ấy đi từng bước vào lịch sử huyền thoại có em, có anh “Anh dìu em trên con đường mưa đổ. Em hãy vịn vai anh mà bước”. Lời thì thầm cũng “nho nhỏ” chỉ cho riêng anh:
Cái khoảng trống này
Cỏ sẽ lên xanh
Và bụi mỗi ngày che phủ!…
Bụi thời gian đó thôi! Hy sinh đó thôi! Nhưng có những hy sinh âm thầm mới có đất nước ngàn năm và những người đã hóa thân vào cỏ có sức sống mãnh liệt của cỏ như trong trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời”
Gió vẫn hát bài ca thuở trước
Cỏ dịu dàng sâu thẳm nhẹ êm .
II. Sức sống mãnh liệt:
1.Từ “Em”: Trong trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời“, Trần Anh Thái đã dựng lên một cảnh làng đầy hoa cỏ dịu dàng và sáo diều vi vu trong gió:
Gió vẫn hát bài ca thuở trước
Cỏ dịu dàng sâu thẳm nhẹ êm
Người che nỗi suy tư vào đêm đêm huyền thoại.
Làng là nơi bình yên cho ánh sáng tìm về
cho mặt trời nương tựa
Nơi các con tôi bây giờ thả tiếng sáo trong vút tự do
Nơi bao trái tim an toàn cất giữ mọi điều bí mật
Và những loài hoa nở lặng lẽ về đêm.
Sức sống mãnh liệt đó đã sinh sôi trong “Ngày đang mở sáng” khi bình minh hé mở:
Khúc I với “Nắng thu trong suốt giòn tan” vì “nụ cười con trẻ” đến khúc IV: “mùa thu ngời mắt em” gặp mùa thu khúc cuối cùng. Kết cục có hậu như những chuyện cổ tích:
Và em ơi mùa thu đẹp quá, mắt em trong sáng vòm trời. Ta thổn thức chờ em nơi cửa biển.
Biển Đồng Châu báo động một tai ương nhưng tình yêu chẳng thể nào báo trước như Hoàng Nhuận Cầm tự nhủ trong “Viên xúc xích mùa thu“:
Tình yêu đến trong đời không báo động
Trái tim anh chưa lỗi hẹn bao giờ
Viên xúc xắc mùa thu ru trong cỏ
Mắt anh nhìn sáu mặt bão mưa giăng
Anh đi qua những thành phố bọc vàng
Những thị trấn mẹ ôm con trên cỏ
Qua ánh nắng bẩy màu, qua ngọn đèn hạt đỗ
Qua bao cuộc đời tan vỡ lại hồi sinh.
“Khúc Huyền ca” đang hồi sinh từ trong tan vỡ. Trong khúc I, thằng cu đã biết đem ước mơ cất vào chiếc hộp tình yêu thơ bé:
Em đứng đợi từ chiều
Chiếc hộp giấy đựng bầu trời
Vỏ sò và ốc biển.
Giấc mơ ngày xa xưa, em đã đến, sao bây giờ, em bỏ đi đâu? Người bạn cũ bùi ngùi trong hai câu thì thầm rất trí tuệ, rất buốt:
Nếu em không cùng đi hạnh phúc không đường đến
Cái ác sinh trong sợ hãi yếu hèn.
Khi được eVăn (evan.com.vn) hỏi: “Người ta thường nói: kẻ mạnh mới là người dám làm điều ác. Vậy anh nghĩ gì khi viết: ‘Sự sợ hãi, yếu đuối là nơi cái ác tìm về’?, Trần Anh Thái trả lời: “Đúng là kẻ mạnh thường mới có đủ khả năng làm điều ác. Nhất là khi cái mạnh đồng lõa với cái ác…Con người sợ hãi và yếu ớt, nghĩa là con người ta đã mất đi chỗ dựa ở cái thiện, lúc đó con người rất dễ đánh mất mình để làm điều ác. Chính vì thế chúng ta luôn phải đấu tranh chiến thắng sự sợ hãi và yếu đuối của chính mình để sống một cách tự tin hơn”.
Có phải thế mà nhân vật chính trong “Khúc Huyền ca” đã tìm cho mình một điểm tựa:
Tôi tựa vào nỗi buồn em khoắc khoải
Thấy ánh sáng rực lên ở phía cuối rừng.
Cái thằng cu “Tôi” ngày xưa cùng “Em” hái trộm dưa hồng nay đã biến thành thằng người “Ta”. Nó kiêu hãnh vượt qua đêm gầy chiến tranh, sống sót sau trận chiến, canh cánh một vết thương lòng, dang tay chờ đợi hạnh phúc dù hạnh phúc vẫn còn ở mãi phía mặt trời. Phải chăng anh ta muốn làm một Đam San thần thoại khi đi bắt nữ thần mặt trời? Điểm tựa cho anh là “Em” – cô gái bé nhỏ ngày xưa trong khúc II:
Trong ánh mắt kín đáo mơ màng
Trong gương mặt buồn xa xăm
Đôi môi hứng khởi thẹn thùng
Sẽ cùng tôi hứng khởi dưới mặt trời dịu nắng
Đôi môi hứng khởi kia đã thành “môi lửa” dữ dội trong trường ca “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương trong những ngày “Thời chiến lên rừng. Thời bình xuống biển”:
Em ngang qua chiều
Nắng thơm mùi rượu
Mắt sông
Môi lửa
Gió lên đồng
Nó tăng lực vạn vật hấp dẫn tình yêu cho “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” bừng sáng trong khúc III:
Cô đơn nở sinh nơi khát vọng
Trong vô biên sáng mới, tôi hát ngợi ca sáng tạo
Mặt đất nâng tôi qua nồng ấm bình minh
vang tiếng gọi Người
Sự sống đồng thanh tấu lên lời ca bừng thức
Tôi mở rộng vòng tay đón mùa màng tự do
Nó vang vọng như một khúc Thánh ca. Một cuộc sống thánh thiện. Một cuộc sống đẹp tươi như “Hoa diên vĩ” của danh họa Hà Lan Vincent Van Gogh. Một cuộc sống lung linh như “Fallingwater – Thác đổ” của kiến trúc sư người Mỹ Frank Lloyd Wright với khúc VI:
Nắng thả khẽ ánh sáng vàng sương mờ
Ngước sáng giọt sương lung linh
Vẳng xa tiếng sóng
… Em khẽ hát một bài ca
Lướt qua những thảm vàng cánh đồng
Những nét chấm phá đã hình thành bức tranh mẹ con tuyệt đẹp trong khúc XIII:
Đêm bừng sáng nụ cười con trẻ
Căn phòng giấu một ban mai hé sáng ngày ngày
Âm thanh của những “Tiếng đạn rơi. Dội vào câm lặng. Dội tầng đất sâu. Dội cõi vô cùng” lắng dần, chỉ còn âm thanh của tiếng hát sang khúc IX:
Gió ngàn năm trong suốt hát trên cây
Khúc hát gọi người về với ngày xưa đã ngưng. Khúc hát đưa người qua bến khác lại đến trong khúc X:
Và gió lặng biển là nơi đầu tiên mặt trời ghé đậu
Mặt nước sẽ ấm lên hào phóng trinh nguyên và sóng biếc nâng cao
Tôn em lên cùng tận cõi người
Khúc hát này nối tiếp khúc hát của trường ca “Trên đường“:
Tôi lắng nghe lời thì thầm của hạt mầm đang đợi sáng
Nguồn sống tự do hiện xa phía chân trời.
và trong chuỗi biến động và trạng thái chuyển động trong “Ngày đang mở sáng” cùng vạn vật hấp thu sinh khí thổi vào lồng ngực người đang hấp hối tâm linh. “Em kiệt sức dưới chân tường thời gian tróc lở, gió mát xoa gương mặt sáng dần”. Tôn nghiêm Em cũng là tôn nghiêm cõi vô cùng! Thần thoại về trái tim con người theo định luật vạn vật hấp dẫn của Isaac Newton và Acsimet bắt đầu với những khắc khoải…
2. Khúc Huyền ca khắc khoải:
a. Khắc khoải về con đường ký ức tổ tiên:
Nguyên Hồng trong “Bài thơ tình ở Hàng Châu” đã tìm về tổ tiên bằng chiếc gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ nhiệm màu:
Gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ
Ðưa ta đi sông núi tuyệt vời
Tim đập mạnh hồn ngây không sao hiểu
Mê Kông sông dài hơn hai ngàn cây số mông mênh
Nguồn tự Trung Hoa có Vạn lý trường thành
Có Hy Mã lạp sơn, Ðộng Ðình hồ, Tây du, Thủy Hử
Trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm khắc họa hình ảnh đất nước muôn trùng nhưng thấm vào máu những câu:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Giấc mơ đang hạ cánh xuống đường lịch sử trong khúc III: Những hình ảnh, sự vật không còn là mơ nữa trong “Khúc Huyền ca”:
– Ngôi mộ xưa
– Con đường tổ tiên đi.
– Khu đền thiêng đóng cửa
– Chiếc đỉnh thờ u uất khói nhang.
– Chiếc bình gốm xưa
– Đất đai tổ tiên khai mở chết vùi sau lũy tre làng già cỗi.
– Con đường không tên
– Ngôi đình thiêng cao vút
Những biểu tượng tổ tiên của ngày xưa hiện dần hết trong trường ca như bản “Danh sách chuyển nhà” của Phan Thị Vàng Anh. Trong “Làng tôi” của Trần Chấn Uy là “Điện thờ Phật lâu ngày không nhang khói. Vẫn lâng lâng phảng phất trầm hương” với những câu chuyện ma “trước ngôi chùa cổ” bằng “Ký ức đồng quê” buồn héo ruột:
Mái đình cổ lao xao bầy chim sẻ
Gió đồng quê thổi lật lá sen chùa.
“Khúc Huyền ca” khắc khoải một giấc mơ dài:
Người ngồi thật lâu
Gây buồn thế kỷ.
Nguyễn Trọng Tạo trong “Đồng giao cho người lớn” nhận diện sự đối lặp tâm linh:
Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
Có con người sống mà như qua đời
Khắc khoải một chân trời không có tiếng súng, thằng cu hứng khởi với dòng máu tổ tiên không muốn thấy mình sống như đã chết:
Tôi mang theo dòng máu tổ tiên lội qua sình lầy tù đọng, ấu thơ vang lồng ngực phập phồng.
b. Khắc khoải một mặt trời:
Khắc khoải ngày bình minh thay thế hoàng hôn. Xuyên suốt 11 ca khúc là những khúc ca đầy tự tin trong “ký ức ngàn năm khép mãi một vòng tròn”:
– Tinh sương rộ lên giàn đồng ca sáng mới
– Vòm cây muôn điệu vang ca dâng hiến
– Thấy ánh sáng rực lên
– Trong vô biên sáng mới, tôi hát ngợi ca sáng tạo
– Sự sống đồng thanh tấu lên lời ca bừng thức
Ngay trong đạn bom vẫn có sự sống:
Hoa trứng gà nở vàng
… Nắng thả khẽ ánh vàng sương mờ
Ngước sáng giọt sương lung linh
… Phưng phức hoa mào gà
Ban mai bừng thức.
Trong hỗn loạn, chết chóc và thương đau, ”Khúc Huyền ca” vẫn mang một sức sống của gió: “Gió ngàn năm trong suốt hát trên cây” bên cạnh “những chùm hoa dại trắng tinh nở trên vết máu chiến hào”.
Hãy nhìn quê hương tươi sáng theo chiều kim đồng hồ và hãy biết rằng: Sáng thức dậy ta thấy mình còn đó, mới tin rằng hạnh phúc có đâu đây.
“Khúc Huyền ca” hé cửa là một cánh đồng đói khát nhưng nó vẫn không đóng lại bằng sự khát đói, vì hôm nay, vườn rau đã xanh lá không còn “vườn rau là bãi chiến trường” (như cách đây ba mươi năm mà Thu Trang trong “Nói sao cho vợi” (100 bài thơ hay nhất?!) đã từ đất Pháp hình dung) mà nó mở ra, mở cửa đón chờ mặt trời để lột xác thành “Ngày đang mở sáng“:
Ánh sáng nơi nơi tỏa rạng
Vang ca sự sống hồi sinh.
“Mặt trời chân lý chói qua tim” thời Tố Hữu đã mờ. Mặt trời trong “Khúc Huyền ca” chỉ có thể có trong thế giới mà những người sách cổ thi Hoài Nam Tử của Hoài Nam Vương Lưu Anh dạy:
Đức ít mà được ân sủng nhiều
Tài kém mà ở địa vị cao
Thân không lập được công to mà hưởng bỗng lộc nhiều.
không còn nữa và con người sống hiền lương theo nghĩa “Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh” (Mình không tranh giành với ai thì chẳng ai tranh với mình). Ước mơ vẫn chỉ là mơ ước! Vẫn là giấc mơ khắc khoải giữa đôi bờ nhẹ nhàng vượt qua ký ức!
Kết nội dung:
“Khúc Huyền ca” với những cung bậc thăng trầm đã vang lên tiếng hát bình minh. Nó là bạn đồng hành với những dòng trữ tình, trường ca anh em, bè bạn khi tái tạo hình ảnh chiến tranh ở một góc trời nhỏ bé của hiện thực và nó một mình một ngựa chậm rãi lùi xa thế giới “Oan oan tương báo. Dĩ hận miên miên” của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đau thương, chết chóc, bệnh tật, thiên tai để tiến về phía bầu trời có chiếc khăn vẫy chào và đàn chim đang tung cánh bay cao, bay xa trong thế giới “không có ai độc chiếm hào quang”.
Nó bỏ qua “Khúc tiêu điều” mê mộng một Tây Thi của Huy Thông về mặt hiện thực. Nó vượt qua “Khúc mùa thu” về “Người-đàn-bà-giấu-đêm-vào-trong-tóc” của Hồ Thanh Quang về ý ẩn dụ. Nó rung cùng “Khúc Nam Xuân” khi ”chợt dịu dàng trong dìu dặt lời ca” của Võ Quê về sự đồng cảm. Nó trầm mình trong ngọt ngào với “Khúc dân ca em hát” về tính lãng mạn của Ma Trường Nguyên:
Âm thanh lắng vào trong trời đất
Như hạt mùa màng xanh trải bao la.
Cuối cùng, “Khúc Huyền ca” sáng chói đỉnh nhân văn khi cùng người trở về với chính con người lương thiện. Nó hòa mình với “Khúc hát đồng quê” của Chử Văn Long:
Anh hát em nghe khúc hát đồng quê
Cho lắng lại vui buồn muôn thuở
Cho mẹ thương con cho chồng thương vợ
Người không thương nhau có rất ít ở trên đời
Anh hát em nghe về những con người
Sống với đất chết lẫn vào cùng đất
Chỉ để lại nụ cười chân thật
Như hoa đồng cỏ nội nở rồi quên
Những câu hát nhắc anh những câu hát nhắc em
Ăn hạt gạo không quên người cày cuốc
Bao vất vả gian lao có gì được hưởng
Ai quên ai khuya sớm nhọc nhằn…
Có ai quên một thời mình cùng là “Đồng chí” mà Chính Hữu từng treo trăng trên đầu súng thời chiến tranh “áo anh rách vai, quần tôi có vài miếng vá”, một thuở “cục đất ta gối nằm chung, cục xương chia nửa, cục bùn xẻ đôi”? Thơ ca bẩm sinh như con người là hiền lành, trong trẻo là thế! Hơn thế nữa, âm hưởng giá trị nhân bản từ “Khúc Huyền ca” khi toát lên được cái thần của cuộc đời kế tiếp từ âm hưởng trong “Đổ bóng xuống mặt trời”:
Nắng mới về trộn đầy trên những giàn hoa sớm
Khúc ca muôn đời trong đất sinh sôi
“Khúc Huyền ca” tiếp nhận, hòa tan và trở thành:
Ánh sáng nơi nơi tỏa rạng
Vang ca sự sống hồi sinh.
Khi nó đắm mình vào thế giới tự do, lãng mạn thì “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” man mác giai điệu bản trường ca “The Gardener” (Hiến dâng) của Rabindranath Tagore (The Nobel prize Literature 1913):
Open your doors and look abroad.
From your blossoming garden gather fragrant memories of the vanished flowers of an hundred years before.
In the joy of your heart may you feel the living joy that sang one spring morning, sending its glad voice across an hundred years.
Mở cửa nhìn ra, hỡi bạn
Tìm về những kỷ niệm ngát hương hoa trong vườn xưa trăm năm trước phai tàn.
Niềm vui từ trái tim sẽ làm cuộc sống hân hoan hát về một sáng mùa xuân, gởi theo trăm tiếng nói yêu đời chứa chan.
(The Gardener– Khúc 85, Hiến dâng- người viết tạm dịch từ bản dịch tiếng Anh trên terebess.hu)
Rất tiếc, mở sách văn chương nước ngoài, ngôn ngữ ta bất đồng, dịch thuật ta yếu kém, thì làm sao ta cảm hết những cái tuyệt vời của nguyên bản từng tác gia!
Với Trần Anh Thái và “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” vẫn còn có những ánh nắng vàng khi miêu tả cuộc sống nhiều xanh xao, héo gầy quá và có những khi mình lặp lại mình, thơ lặp lại thơ và ý trùng ý… Trần Anh Thái có lợi thế khi đứng từ cột mốc thời bình để tái tạo quá khứ chiến tranh và đủ thời gian loại dần những giá trị không có tính thời gian. Nhưng thực tế hiện nay, việc tái tạo hình ảnh, con người thời chiến sẽ làm người ta chìm vào bóng đen quá khứ và ngán… cơm nguội nhưng lại sợ… cơm thiu! Thôi thì, đổi món cháo, hãy táo tạo một hiện thực hôm nay: Là tham nhũng, là những gì mà đất nước báo động từ nguồn sông, giếng nước, thức ăn đến mồ mả tổ tiên, học đường, nhân phẩm…Những cản trở “trên đường”, trường ca tiếp theo sẽ cuốn chúng vào dòng xoáy của lịch sử. Lịch sử sẽ quay lại mỗi thời kỳ một lần như cuộc quay xổ số. Biết đâu đấy, mình… trúng giải đặc biệt…
Tuy nhiên, trên phương diện thể hiện chức năng hiện thực với một trái tim đồng cảm, “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” như cái tên gọi hy vọng sẽ là “hiến dâng“, là gởi theo ngàn tiếng nói chứa chan, trăn trở cho đời! Giá trị nhân bản sẽ mang tiếng thơ vang xa. Trần Đăng Khoa trong “Người thường gặp – Trần Anh Thái – bạn tôi” (evan.com.vn) công nhận: “Trần Anh Thái không phải chỉ biết gõ vào trái tim ta, anh còn nồng nhiệt trao cho ta cả trái tim nhiều trắc ẩn của anh. Đó là trái tim của một thi sĩ”. Còn cảm nhận của Thanh Thảo trong “Ta ngạt thở chờ bước chân em tới” (toquoc.gov.vn) “Đó là nhà thơ không chịu dừng bước không chịu định hình quá sớm để tận hưởng những gì mình đã có… Nhưng anh đang sống đây, lấm láp như chính những câu thơ anh viết”.
“Open your eyes anh look abroad by… your heart – Hãy mở đôi mắt nhìn mọi thứ bằng chính… trái tim mình!”. Một nội dung nhân bản vẫn phải đi cùng với giá trị nghệ thuật tương xứng sinh ra nó. Có thể nói, “Khúc Huyền ca” đã làm được đa chức năng – một loại hình văn học – trường ca. Nó phản ánh hiện thực có chọn lọc và sáng tạo khi xây dựng một thế giới bình minh cho con người trong tương lai với tinh thần nhân ái.
Theo Nguyễn Xuân Nam: “Văn học phản ánh cuộc sống một cách có chọn lọc, có sáng tạo. Viết văn là một hành động nhận thức của nhà văn về cuộc sống và con người” (Chức năng của văn học, trang 308, sđd).
Chuyển tải được ngần ấy chức năng, “Khúc Huyền ca” phải cần tới một bản lĩnh thực sự đầy nghệ thuật của người sinh ra nó! Một chức năng văn học khác không thể thiếu: Chức năng thẩm mỹ!
GIÁ TRỊ THẨM MỸ
Giá trị nghệ thuật hay giá trị thẩm mỹ của một tác phẩm được đánh giá qua những hình ảnh, ngôn từ, thủ pháp và các phương pháp tu từ có cơ sở lý luận văn học nhân văn làm nền. Giá trị này được tính cùng với giá trị nội dung mà tác phẩm có được.Vương miện chỉ có thể trao một hoa hậu khi người ấy đáp ứng: Cái đẹp tâm hồn tri thức và cái đẹp của cha mẹ tạo cho chứ không phải là cái đẹp tâm hồn ảo khi vay muợn tri thức còn cái đẹp đường nét thì thẩm mỹ hóa nhân tạo và sự bầu chọn cảm tính.
Một tác phẩm văn học cũng như hoa hậu, nếu vượt qua được cửa ải lý luận văn học với những chức năng riêng thì bản thân nó tự trở thành tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học bao giờ cũng phải bảo đảm hai chức năng cơ bản: Nội dung hàm chứa giá trị nhân bản của nhân loại và giá trị thẩm mỹ khi mang lại tính Người cho con người. Muốn mang lại tính Người cho con người, tác phẩm văn học cần phải chuyên chở một tiếp nhận thẩm mỹ (cái hay qua giáo dục và cái đẹp qua ngôn ngữ, hình ảnh, hình tượng, thi pháp nghệ thuật…)
Lại Nguyên Ân ghi rõ:“Tiếp nhận thẩm mỹ không phải là sự tái hiện giản đơn tác phẩm nghệ thuật trong ý thức, mà là một quá trình phức tạp: quá trình cùng tham dự và cùng sáng tạo tiếp nhận” (Tiếp nhận thẩm mỹ, trang 1715, Từ điển văn học-Bộ mới-2004).
Thực ra, nó đơn giản chỉ là cách sáng tạo của tác giả dựa trên sư tiếp thu từ nền gạch văn học cũ tức là từ trong một đề tài cũ nhưng cách viết mới. Cách viết mới này chính là nghệ thuật sáng tạo và phương pháp tư duy hình tượng độc đáo. Thi pháp mới hay còn gọi với cái tên văn vẻ “cách tân” đúng nghĩa sẽ mang lại cho tác phẩm văn học tính thời gian. Tính thời gian quyết định sự sống còn của một tác phẩm văn học.
A. CÁI MỚI CỦA “KHÚC HUYỀN CA”:
I. Phá vỡ cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt:
Tiếng Việt có cấu trúc truyền thống chính: Chủ ngữ và vị ngữ (C-V) và thành phần phụ bổ nghĩa cho danh, động, tính từ thì đứng bên cạnh chúng tạo thành những cụm danh, động, tính từ có nội dung hoàn chỉnh. Các thành phần trạng ngữ đứng ba vị trí trong câu: Đầu, giữa và cuối. Các thành phần liên từ đứng khoảng giữa các từ mà chúng có nhiệm vụ nối tiếp.
Phá vỡ cấu trúc tiếng Việt có nghĩa là trật tự cú pháp của tiếng Việt sẽ thay đổi và sẽ mất đi một số từ nhưng nội dung câu vẫn tương đối bảo đảm. Cấu trúc này giúp câu thơ gãy gọn, súc tích. Nó đổi mới cho nhịp thơ dù có vần hay thơ tự do.
Trường ca “Khúc Huyền ca- Ngày đang mở sáng” đã có cách thay đổi cấu trúc này:
1. Về đoạn:
– Khúc 1:
Giọt giọt cánh đồng
Run cơn khát
Bóng người ngày đổ
Xơ xác tàn bay
Biển chật vật bên bờ đá trắng,
tiếng cuốc kêu đói lả cánh đồng, niêu cơm trống mắt,
ánh nhìn ngơ ngác hiền khô quên ngày tháng năm sinh,
Luôn bất chợt giật mình
Cúc áo cài lộn ngược.
Không có hoa mào gà cánh đồng khô nứt nẻ,
bé thơ đứng cắn ngọn cỏ gà chớm nở bình minh
Đoạn thơ trên miêu tả một cánh đồng đang hút nước (thiếu nước) đến nổi hút cả giọt mồ hôi cuối cùng của người lao động. Đồng cạn kiệt vì thiếu nước. Người cùng chim cuốc đói lả ruột đến nổi không còn biết mình là người hay không?
Đoạn đầy đủ ngữ pháp sẽ là:
Giọt giọt (mồ hôi đổ/rơi/rớt/chảy xuống) cánh đồng (đang) run cơn khát.
Ngày đổ (trên) bóng người xơ xác tàn bay.
Biển chật vật bên bờ đá trắng.
Tiếng cuốc kêu đói lả (khắp) cánh đồng.
Niêu cơm trống mắt (với) ánh (mắt) nhìn ngơ ngác, hiền khô, (người) quên cả ngày tháng năm sinh (và -luôn) luôn bất chợt giật mình.
Không có hoa mào gà (trên) cánh đồng khô nứt nẻ . (Hoặc Trên cánh đồng nức nẻ, không có hoa mào gà).
Với một đoạn thơ có cấu trúc câu đầy đủ ngữ pháp, lợi điểm của nó là thể hiện hết ý tác giả và người đọc khỏi mắc công động não.
Khi đoạn thơ được tước bớt một số cấu trúc như cụm chủ vị (mồ hôi đổ xuống) hay mất trạng ngữ (đang, khắp), mất động từ chỉ vị trí (trên), liên từ (với), mất chủ ngữ (người)… đoạn văn có giá trị ngược lại. Nó ngắn gọn hơn. Ý thơ vì thế cô động hơn. Người đọc động não chút ít.
Trường hợp lược bớt một số từ như trên, ít khi được dùng trong thể loại tự sự, kịch…Riêng thi ca, càng tinh giản từ bao nhiêu càng có tính hàm súc cao. Tinh giản cũng không có nghĩa là sử dụng câu cụt, què.
Có thể thấy trong ca dao cho phép sự phá bỏ cấu trúc này:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Câu ca dao trên phá bỏ chủ ngữ “ai cày?”. Câu thứ 1 đầy đủ:
– Chủ ngữ Người + vị ngữ cày + bổ ngữ đồng + trạng ngữ chỉ thời gian đang buổi ban trưa. Câu thứ 2 đầy đủ:
– Định ngữ Mồ hôi + chủ ngữ Người + động từ đổ/rơi/tuôn/chảy + thánh thót như mưa + động từ vị trí trên + ruộng cày.
Câu thơ đầy đủ thành phần ngữ pháp như thế thì nó chuyển sang câu văn: “Người cày đồng đang buổi ban trưa. Mồ hôi người rơi thánh thót như mưa trên ruộng cày”. Thật ra, đi vào văn xuôi, tính từ chỉ tính chất “thánh thót” không phù hợp khi tả người lao động cực khổ trên đồng. “Mồ hôi người đổ như mưa trên ruộng cày“, đầy đủ ý lắm rồi nhưng trong ca dao hay thơ ca vẫn dùng được để làm rõ ý gì đó. Ta thấy rõ là câu ca dao trên đã dùng tính từ “thánh thót” để ngợi ca sự lao động.
Nhưng không phải phá vỡ cấu trúc ngữ pháp là làm câu thơ hay. Nó chỉ hay với cách miêu tả của tác giả đúng và có sự rung cảm thật lòng. Ví dụ với câu thơ này của Tố Hữu cũng phá vỡ ngữ pháp đầu câu và có vần vè nghiêm chỉnh:
Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ.
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!
“Giọt mồ hôi của anh vệ quốc quân” là chủ ngữ “rơi trên má anh vàng nghệ” là vị ngữ. Câu thơ trên phá vỡ chủ ngữ. Nhưng hóa ra… buồn cười. Giọt nước, giọt mưa mới rơi trên mặt. Giọt mồ hôi trên mặt sao lại có thể rơi trên mặt. Họa chăng, “giọt mồ hôi của người khác” rơi trên mặt anh chàng vệ quốc quân kia với điều kiện người đó phải… cuối xuống mặt anh! Hai chiếc xe cùng vận tốc, ai ngu ngốc nói xe này chạy nhanh hơn xe kia?
Có thể nói: Viết sao cũng được, miễn là người viết biết cách dùng từ ngữ, câu cú phải hợp từng loại thể và từng văn cảnh một. Viết không trúng ngữ pháp và dùng từ không hợp ngữ nghĩa sẽ tạo ra hình thức “xum xê” nhưng ruột gan trống rỗng! Ống thu đủ!
Trở lại cấu trúc trong “Khúc Huyền ca“, câu dưới:
– Đoạn 4/khúc 4: Sử dụng từ “giọt giọt“:
Chim trói cột gõ vang ngày chật hẹp, mặt đất căng ra cái chết đến gần. Đêm không gió oi nồng chúng tôi ngồi giã từ sự sống. Cốc cà phê giọt giọt cuối cùng.
Tiếng ai nấc trong đêm. Mồ hôi tứa thấm vào sương ớn lạnh, những cành khô lạo sạo vỡ hỗn mang.
Hết cốc cà phê này là đêm cạn. Rừng bí ẩn sương giăng.
Giờ đã đến côn trùng ran bốn phía, bầy quạ đêm hốt hoảng réo vòng quanh.
Chớp mắt qua là mặt đất xoá nhoà.
“Cốc cà phê giọt giọt cuối cùng“: Thể hiện một diễn biến chậm chạp, nặng nề theo tâm lý. Nhìn cà phê chảy từng giọt xuống cốc (ly, tách, tô…), người ta sẽ cảm nhận được từng giọt, từng giọt cà phê như tiếng mưa lòng từng giọt mưa, mưa từng giọt trong đêm… Giọt mồ hôi dành cho người lao động, giọt cà phê dành cho người sắp đi ra chiến trường. “Hết cốc cà phê này là đêm cạn“. “Ngày mai hai đứa xa cách hai nơi” của Thanh Sơn sắp tới nơi!
Câu đầy đủ “Giọt cà phê cuối cùng rơi xuống cốc” hoặc “Cốc cà phê đang nhiễu giọt cuối cùng”. Câu đầy đủ ý nhưng dài dòng vì tả kỹ quá y như người uống chỉ chăm chú vào giọt cà phê. Trong bài “Cà phê ‘ngọt’ ”(vietnam.net), Nhị Tường rủ rỉ “mỗi khi gặp chuyện gì bất như ý trong cuộc đời, tôi lại muốn uống một ly cà phê. Cà phê tuy đắng nhưng nó làm cho cuộc đời thêm ngọt ngào, vì một lẽ, không ai muốn uống cà phê một mình”.
Trần Anh Thái cũng không uống một mình nhưng không phải gặp chuyện “bất như ý”. Anh phá vỡ luật uống cà phê của Nhị Tường và phá vỡ câu trúc ngữ pháp để phục vụ một nội dung: Người lính chiến trẻ tuổi chuẩn bị tâm lý ra trận. Câu phá vỡ động từ chính của Trần Anh Thái có giá trị biểu cảm ngắn gọn như giọt cà phê rơi xuống đáy cốc và dừng lại đó! Thời gian tâm lý sẽ trở nên dài hơn, nặng nề hơn với câu đầy đủ ngữ pháp. Điều đó, nó sẽ làm giảm đi ý chí lên đường theo bổn phận làm trai. Vậy thì phải có một tâm lý dứt khoát bằng giọt cà phê cuối cùng rơi chạm cốc, là anh và đồng bọn phải đi ngay!
Cách phá vỡ cấu trúc ngữ pháp này, ta thấy thêm ngay trong đoạn thơ tự do trên. Câu đầy đủ khi thêm dấu chấm câu dùng tách hai câu đủ chủ vị ra khỏi nhau như các bác sĩ mổ tách cặp song sinh dính liền các bộ phận:
Chim trói cột gõ vang (trong/giữa) ngày chật hẹp. Mặt đất căng ra (đón) cái chết đến gần. Đêm không gió với ( thời tiết) oi nồng, chúng tôi ngồi giã từ sự sống. Cốc cà phê( nhỏ/rớt/ chảy) giọt giọt cuối cùng.
Tiếng ai nấc trong đêm. Mồ hôi tứa thấm vào sương ớn lạnh. Những cành khô lạo sạo vỡ (trên ngàn).
Hết cốc cà phê này là đêm cạn. Rừng bí ẩn sương giăng.
Giờ đã đến côn trùng ran bốn phía. Bầy quạ đêm hốt hoảng réo vòng quanh.
Chớp mắt qua là mặt đất xoá nhoà.
Ta thấy với loại thơ tự do, không phải là gieo vần sao cũng được. Ví dụ “Cốc cà phê giọt giọt cuối cùng” sẽ đi vần bằng với câu chốt trong câu “Chớp mắt qua là mặt đất xóa nhòa” mà khó theo vần trắc.
Tuy vậy, khiếm khuyết của đoạn này với câu “Những cành khô lạo xạo vỡ hỗn mang” . Không thể dùng “vỡ hỗn mang” cho “những cành cây khô“. Có thể dùng cho “rừng hỗn mang”. “Hỗn mang”: Tính từ chỉ tính chất thời sơ khai. Đoạn thơ trên là đoạn đang tả thực. Dùng “hỗn mang” để hợp vần “mang” với “cạn”trong “đêm cạn” làm mất tính trong sáng của từ. Ta cần tìm một từ khác có vần “an” như từ “ngàn” ở trên.
Hai đoạn thơ đầu tiên phần trên, ai đọc cũng nhận ra hai cảnh: Một cảnh là con người lao động khổ sở trên cánh đồng khô cháy và một cảnh người lính với ly cà phê giữa rừng chờ đợi ngày xung trận.
Có thể thấy thêm một số câu, đoạn đầy ẩn dụ, nhân hóa trong “Khúc Huyền ca” đã phá vỡ cấu trúc ngữ pháp sau:
Khúc II:
Đêm đóng cửa vẽ gương mặt em trong trái tim tôi khi ấy
Cây bút buông rơi trang giấy vo nhàu.
Lẽ ra: “Tôi buông rơi cây bút, vo nhàu trang giấy” nhưng hành động nhân vật chủ thể đã chuyển nhượng cho vật thể với cái ý: Với khuôn mặt em hấp dẫn như thế thì cả cây bút và trang giấy cũng… mê em mà tự động nhào lăn ra. Trần Anh Thái không đá động gì đến khuôn mặt em ra sao nhưng vật thể đã ngầm ý nói dùm: Mặt em đẹp, hiền dịu thì “bóng đêm” (lại mượn) mới vẽ trong tim. Ai đi vẽ bản mặt một ác ma hay bản mặt của “bạch phát ma nữ” vào tim. Đêm không vẽ em cho đêm mà đêm vẽ em cho tôi. Đêm biết điều biết chừng nào! Cái nào của ai thì người ấy hưởng, người ấy được, không ai đoạt được. Truyện cổ tích “Chum vàng bắt được” nói cái ý này: “Của giàu đem đến dửng dưng. Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu”.
Chuyển tiếp đoạn dưới:
Sáng sáng
Trong yên lặng tinh sương
Ánh mắt em thẳm sâu đăm đắm
Nâng tôi lên vòm cao.
Tôi tựa vào nỗi buồn em khắc khoải
Thấy ánh sáng rực lên ở phía cuối khu rừng.
Chú ý câu này rất đúng ngữ pháp với kết cấu định ngữ ánh mắt + chủ ngữ em + cụm tính từ chỉ tính chất làm vị ngữ “thẳm sâu đăm đắm”: “Ánh mắt em thẩm sâu đăm đắm” . Sang câu: “Tôi tựa vào nỗi buồn em khắc khoải” thì cấu trúc bị phá vỡ: Chủ ngữ tôi + động từ tựa vào cần bổ ngữ bắt buộc là danh từ em hoặc cụm danh từ nỗi buồn của em. Có thể nói: “Tôi tựa vào em” hay “Tôi tựa vào nỗi buồn của em”. Không thể nói: “Tôi tựa vào em khắc khoải”. Câu này sẽ thành câu cụt vì tính từ “khắc khoải” phải cần trợ tính từ. Vậy tính từ “khắc khoải” bỏ đi đâu? Chỉ có thể là: “Tôi tựa vào em khắc khoải nỗi buồn” hay “Tôi tựa vào em nỗi buồn khắc khoải” thì thành “nỗi buồn của tôi” mất rồi!.
Câu như vậy đúng ngữ pháp nhưng lệch nội dung vì tác giả muốn nói từ “nỗi buồn của em khắc khoải” (không phải nỗi buồn của tôi) đã làm cho tôi xốn xang và tôi cần phải làm điều gì đó cho em thôi khắc khoải một nỗi buồn. “Ánh sáng rực lên” là niềm tin, niềm hy vọng lóe lên trong tận cùng (cuối khu rừng).
Cấu trúc ngữ pháp đúng chưa thể chuyển tải cái ý cao cả này thì trường ca “Khúc Huyền ca” đã làm được bằng cách phá vỡ cấu trúc đó.
Khúc IX:
Em cúi mặt bước đi
Dấu chân mòn cũ
Vô định con đường rêu.
Đôi khi trật đường sợi dây xiết giật
Em vấp ngã lả người
Nước mắt ròng gương mặt xinh.
Câu đầy đủ: “Em cuối mặt bước đi trên con đường cũ, dấu mòn, vô định, rong rêu”: Chủ ngữ em + động từ cuối cần bổ ngữ là một danh từ mặt = Em cuối mặt chưa rõ nghĩa nên câu trên cần tiếp một động, tính từ. Câu này dùng động từ bước đi nên ta + một lô động tính từ bổ nghĩa cho nó (đi đâu? như thế nào?) trên con đường cũ, dấu mòn, vô định, rong rêu. Cấu trúc thứ hai đúng ngữ pháp: Cụm trạng ngữ chỉ địa điểm, thời gian, tính chất: Trên con đường cũ, dấu mòn, vô định, rong rêu (có thể đảo trạng ngữ này ra vế sau) + cụm chủ vị làm chủ ngữ Em cuối mặt + vị ngữ là động từ bước đi. Thật là dài dòng.
Trần Anh Thái mang câu đầy đủ ngữ pháp này, cắt tỉa và trải nó ra thành 3 câu như trên (thực ra, nếu viết một hơi không chấm phẩy như Trần Anh Thái hay dùng cũng không ảnh hưởng gì đến trường ca về mặt ngữ nghĩa: Em cúi mặt bước đi dấu chân mòn cũ vô định con đường rêu nhưng mất giá trị thi vị của thơ.Thành thử có 3 cụm chủ vị tạo thành vẫn không theo cấu trúc ngữ pháp: Em cúi mặt bước đi (Thiếu bổ ngữ cho động từ bước đi vì câu hỏi này còn bỏ ngõ: Em đi đâu? Em về đâu?)
Dấu chân mòn cũ (Thiếu chủ ngữ: Dấu chân ai, dấu chân con gì mòn cũ?)
Vô định con đường rêu (Đảo ngược vị ngữ: Con đường rêu như thế nào? Con đường rêu vô định – thủ pháp ngoại ngữ!! Con má ngoan thành ngoan má con).
Vậy mà đi vào trường ca, chúng có giá trị chuyển tải một bước chân cô đơn của em đi trên con đường mòn vô định, không tương lai gì ráo trọi! Con đường này mang lại cho em “nước mắt ròng gương mặt xinh“.
Ta lại gặp cấu trúc nguyên thủy sắp bị phá: Chủ ngữ nước mắt + động từ chảy cần bổ ngữ ròng + cụm trạng ngữ chỉ vị trí trên gương mặt xinh. Câu đúng ngữ pháp: “Nước mắt chảy ròng trên gương mặt xinh” hoặc “Trên gương mặt xinh, nước mắt chảy ròng”.
Trần Anh Thái… vặt cổ động từ “chảy” mà không quăng cái tính từ “ròng” là vì ròng… có gì ghê gớm hơn chảy đâu? Nó chỉ đứng vào câu cho hợp vần thôi: “Em vấp ngã lả người. Nước mắt ròng gương mặt xinh” thay vì “Em vấp ngã lả người. Nước mắt chảy khuôn mặt xinh“?? Từ “chảy” vần trắc không kết đôi với vần bằng “ròng”. Thơ tự do thì tự do nhưng cũng phải có vần là vậy. Nếu không ăn “rơ” với nhau, thằng trống đánh xuôi, gã kèn thổi ngược, chỏi nhau chan chát. Người đọc có mà… tức điên!
Câu có kết cấu phá vỡ cấu trúc ngữ pháp như thế rất nhiều trong khúc trường ca này. Ví dụ: Em áo mỏng. Nắng ngập ngừng mái tóc / Chiến tranh hốc hác mặt người / Có bao nhiêu người không về. Rưng rưng nắng ngày rưng rưng mặt trời xa / Vách núi dựng ầm ào thác đổ / Mồ bạn không dấu vết. Chơ vơ vòm trắng mây bay / Chân nhang ai vừa qua. Khói bay côi cút / Tắc kè nghiến vào đêm / Mắt em trong sáng vòm trời … tạo thành một hệ thống từ ngữ gãy gọn, như súng lục bắn phát một trúng… tùm lum, tùm la!! Người đọc tha hồ động não!
Phá vỡ cấu trúc ngữ pháp khác đảo vị trí chủ ngữ, vị ngữ. Ta cũng nên cần phân biệt với lối đảo câu bình thường hay gặp khi người viết muốn nhấn mạnh hành động, tính chất sự vật, sự việc như trong “Khúc Huyền ca” đảo vị ngữ ra trước. Tức là đảo chủ – vị (C-V) luôn đứng đầu câu ra đằng sau vị-chủ (V-C): Hiu hắt vùng trời / Vùng trời hiu hắt; Khô khan mắt nhìn / Mắt nhìn khô khan; Lạo xạo bước chân / Bước chân lạo xạo; Hoàng hôn mặt trời / Mặt trời hoàng hôn; với sự phá vỡ cấu trúc như “Chơ vơ vòm trắng mây bay” (đúng: Chủ ngữ Vòm mây trắng + vị ngữ bay hoặc chơ vơ + bổ ngữ cho động từ bay là tính từ chơ vơhoặc bổ nghĩa cho tính từ chơ vơ là một động từ bay thành “Vòm mây trắng bay/ chơ vơ” hay “Vòm mây trắng chơ vơ/ bay”.
Hai phép này có gì khác biệt?
Đảo chủ vị hay đảo vị ngữ, ta chẳng cần hoán chuyển từ, ngữ mà chỉ mang hết thành phần chủ ra sau vị mà thôi.
Phá vỡ cấu trúc ngữ pháp là bỏ bớt một hay hai từ, ngữ (là động từ, tính từ…) trong thành phần của một cụm chủ hay vị và chỉ chọn một mà thôi, không lấy hết để đảo ra trước hoặc sau tùy ý miễn nội dung không thay đổi. Cách này khó thành công với những ngòi bút chuyên viết theo cảm tính, tràng giang đại hải…
Trần Anh Thái bước đầu đã thành công trong cách phá vỡ cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt. Công dụng của cách phá vỡ cấu trúc ngữ pháp là tạo nhanh những đoạn, câu, ngữ, từ hay chứa đầy ẩn ý sâu sắc vì dùng nhiều phép tu từ tự nhiên.
Ví dụ:
– Đoạn hay:
Khúc I:
Ngọn lửa xa xôi đôi mắt con thơ
Người tựa vào đôi mắt ấy dò tìm
Run rẩy vịn qua tháng năm gầy mòn yếu ớt.
Vẫn dùng thủ pháp phá bỏ cấu trúc câu:
Câu đúng: Thêm từ, thêm dấu phẩy tách đơn vị tính từ đi chung:
Ngọn lửa xa xôi (là/từ ) đôi mắt con thơ
Người tựa vào đôi mắt ấy dò tìm
Run rẩy vịn qua tháng năm gầy mòn, yếu ớt.
Nếu không có động từ “là”, hay từ nối “từ“, câu sẽ được hiểu 2 cách: Một ngọn lửa. Một đôi mắt con thơ. Câu này không thể dùng dấu chấm tách câu hoặc dấu phẩy tách ý vì chúng liên quan mật thiết với nhau. Không thể dùng từ tính từ chỉ vị trí “trong” để lấp vào “Ngọn lửa xa xôi trong mắt con thơ”. Câu này đầy đủ 2 thành phần chủ vị. Nó được hiểu nhầm là ngọn lửa trong đôi mắt con thơ chứ không phải con thơ là động lực chính tạo cho người mẹ một ngọn lửa để mà sống vì nó. Dùng chúng thì câu trở nên nặng nề khi chuyển tải thêm một dấu huyền! Câu đang đi lên êm ái bỗng vấp phải cái ổ gà…
Cái hay của đoạn thơ trên là vì cấu trúc này đã biến một cụm chủ vị “Ngọn lửa xa xôi từ/trong/là đôi mắt con thơ” thành một tổ hợp liên danh từ “Ngọn lửa xa xôi đôi mắt con thơ” cộng thêm sắc áo tu từ ẩn dụ đôi mắt là ngọn lửa. Đó là so sánh chìm khác với so sánh nổi.
Ví dụ: “Những đôi mắt mang hình viên đạn” chẳng hạn, hoặc “em như một nụ hồng“…Viên đạn, nụ hồng… những thứ mà người ta có thể cầm, nắm chơi được thì gọi là so sánh nổi. Ngọn lửa, thấy được nhưng chẳng ai dám cầm chơi. Ngọn lửa có trăm thứ lửa, có ngàn thứ mưa.
Như vậy, phá vỡ cấu trúc ngữ pháp cũng vẫn có được sức sống của phép: Ẩn dụ tu từ.
Phá vỡ cấu trúc ngữ pháp cũng mang sắc áo tu từ thứ hai: Nhân hóa.
Nhân hóa là gắn thuộc tính người sang vật. Vật hóa, ngược lại. Tu từ này dễ nhận diện. Cho nên, người sử dụng phải chọn lọc.
Ta thấy: “Tháng năm gầy mòn yếu ớt” mang sắc thái diễn tả một thời gian không sức sống. Tháng năm này đã đến với người mẹ như bệnh dịch cúm gà. Vậy thì thấy cái chết đến nơi, thấy quan tài đến chốn.
Tu từ thứ ba: Tương đồng. Nghĩa là đem cái cân, đo, đong, đếm được để gắn với cái không cầm, nắm được hoặc cái trừu tượng mơ hồ để cho chúng cùng vào cuộc với mình:
– Người tựa vào đôi mắt ấy
– Run rẩy vịn qua tháng năm
Người tựa vào ngọn lửa (đôi mắt con thơ chính là ngọn lửa): Thành ra nghĩa khác tốt hơn: Ngọn lửa dẫn đường. Ngọn lửa tình yêu. Không phải ngọn lửa thiêu cháy người trên cánh đồng khô hạn.
Run rẩy vịn qua tháng năm: Người run rẩy vịn//tháng năm: Thành nghĩa khác: Người mẹ yếu đuối. Tháng năm cũng hết xí quách. Hai tương phản về hình với bóng như nhập vào chung một sự tương đồng: Nương tựa vào nhau mà sống. Một ý nghĩa nhân bản toát ra: Trong sự đói nghèo, chết chóc vì thiên tai; trong hoàn cảnh tang thương vì chiến tranh, đứa con là nguồn sống, là điểm tựa cho người tiếp tục đấu tranh chống thiên nhiên, chống số phận. Đồng thời, sự giao cảm của thiên nhiên và con người đồng điệu, chung một kiếp đói nghèo. Thứ chẳng phải là con người mà vẫn nâng đỡ con người vậy thì cùng là con người “vì sao không thương mến nhau còn gây khổ đau làm gãy nhịp cầu”? như Trầm Tử Thiêng đã đau xót trong “Chuyện một chiếc cầu đã gãy”!
Sử dụng những sắc áo tu từ nêu được mối liên hệ tương quan nhân bản như thế, câu thơ không hay, không động lòng người thì… tâm đá mất rồi!
“Khúc Huyền ca” chuyển tải thêm một đoạn hay trong khúc V.
Khúc V:
Kẻ thất trận dưới chân đồi lê bước
Kéo hoàng hôn rã rời
Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc
Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau.
Bỏ qua những vần đầu “K”, đoạn thơ vẽ lên một bức tranh có hai cảnh trái ngược.
Sắc áo tu từ thứ nhất: Đối lập:
– Kẻ thắng trận / Kẻ thất trận
– Thương tích, ôm mặt khóc / lê bước, kéo hoàng hôn rã rời.
Hay:
– Kẻ thắng trận / thương tích, ôm mặt khóc
– Kẻ thất trận / lê bước, kéo hoàng hôn rã rời.
Bức tranh này ngụ ý cái gì đây? (Kẻ thắng trận đầy thương tích, hai tay ôm mặt khóc. Kẻ thất trận, tay bị trói ngược, lê từng bước nặng nề vì thời gian chỉ còn giá trị trên từng bước chân chiến bại).
Tu từ thứ hai: Phóng đại: Nói cho hơn sự thật. “Kéo hoàng hôn“. Hoàng hôn đâu thể nào như kẹo kéo mà kéo ngắn, kéo dài? Hoàng hôn cũng chẳng là gân cốt mà kéo co hay giản. Hoàng hôn chẳng phải trò chơi kéo co mà kéo qua, kéo lại. Vậy thì sao kẻ thất trận dám kéo hoàng hôn cho nó rã rời ra?
Lại thêm phép tu từ thứ ba: Tượng trưng: Những gì đẹp đẽ thì thuộc về bình minh và ngược lại là của hoàng hôn. “Bóng chiều không thắm, không vàng vọt. Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”. Mình đối diện với mình. Mắt trong vắt đã đầy nỗi buồn. Ẩn dụ tượng trưng này của Thâm Tâm đã hóa giải, vậy mà người ta cứ nghĩ đến nay chưa hóa giải nên nó cứ là ẩn số văn học?!
Trần Anh Thái cũng dùng “ẩn số” cho kẻ thắng trận: “Ôm mặt khóc”? Chiến thắng xong rồi thì “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng” của Phạm Tuyên mà hát tưng bừng lên. Khóc cho mà nhục, rên mà hèn với Tố Hữu à? Mừng khóc. Vui khóc? Vậy thì anh lính thắng trận này vui hay buồn mà khóc? Khóc mừng mình hú hồn còn sống sót hay khóc cho cuộc chiến tương tàn?
Một bức tranh hai loại người. Một cuộc chiến, hai thương đau! Vậy thì đừng để xảy ra chiến tranh. Lời kêu gọi hòa bình là đây. Bức tranh lên án chiến tranh là đấy! Nó tràn đầy tính người. Nó không reo cười trên sự thất bại của anh em cùng dòng máu Lạc Hồng, hay cùng giống người chung một trái đất. “Ai chiến thắng không hề chiến bại. Ai nên khôn không khốn một lần!”. Một huân chương gắn trên ngực mừng chiến công cũng đi vào quên lãng nhưng cái dấu ấn “thương tích” “tạc” vào gió thổi ngàn sau hay tạc vào thế kỷ ngàn sau là vĩnh viễn như người tử tù bị thích chữ trên mặt. Có ai muốn được xăm, được thích chữ vào tim kiểu này? Lại một bức tranh phản kháng chiến tranh như điệu Tango buồn ”vũ nữ thân gầy” (La Cumparsita) của chàng trai 17 tuổi Gerado Matos Rordiguez. Một bức tranh nhân bản tiếp theo trong những bức tranh cơ bản có chữ “Nhân”.
Khúc VII
Đêm đêm
Giấc ngủ ru về ký ức
Nghĩa trang bên bờ sông Vệ
trắng chùm hoa dại nở quên.
Một “thủ pháp ngoại ngữ” được dùng: Câu đúng: Đưa cấu trúc cụm chủ vị về đúng vị trí: C-V nhưng nghe lục cục, lạc cạc:
Nghĩa trang bên bờ sông Vệ
(Có) chùm hoa dại trắng nở (rồi) quên
Hoa nở giữa nghĩa trang. Hoa lòng rơi trên cuộc chiến tàn. Hình ảnh hoa trắng? Trắng tang. Trắng tinh khiết. Trắng thơ ngây. Trắng tay. Trắng tội! Vậy thì ta hãy chọn nghĩa nào cho giá trị câu thơ được nâng cấp? Chọn tất cả miễn là thích hợp từng hoàn cảnh.
Những người bước vào cuộc chiến là học sinh như chưa từng có giây phút lìa xa mái ấm gia đình, chưa một lần hôn lên má người yêu, hãy mỉm cười với những đoá hoa trắng thơ ngây. Những người lính vào trận với một lý tưởng làm trai, coi sự sống chết như “tiếng chim hót lửng lơ sườn núi” lãnh phát đạn từ phía trước hiên ngang thì vô tư nhận hoa trắng tinh khiết. Những người đi vào quân trường với đầy ấp ước mơ, bao nhiêu hoài bão hãy ngậm ngùi mà nhận hoa trắng tay. Những người trên chiến trận “khi mặt trận bốn bề đạn bắn, không ai đứng nơi khoảng giữa đội hình” thì lặng lẽ nhận hoa trắng tội. Người còn sống cuối đầu tưởng niệm những linh hồn đi trước lúc bình minh thì hãy nuốt nước mắt nhận hoa trắng tang.
Tư tưởng nhân văn nhận lấy những chùm hoa trắng chiến hào rồi “tạc” vào núi sông những câu thơ ”rưng rưng nắng ngày rưng rưng mặt trời xa” hay khắc vào núi đá!
– Sắc áo nhân hóa lại tái hiện: Giấc ngủ ru (ta, anh, em) về ký ức. Một giấc ngủ ký ức chiến tranh với “vô vàn nấm mộ không tên“, vô vàn “Bóng người dìu nhau bết máu. Màn đêm lặng phắc bãi chiến trường, gió khô mặt đất. Mơ hồ cơn co giật, tiếng gọi thất thanh, tiếng kêu cứu vớt, ròng gương mặt thời gian ám mùi bom đạn.
Những xác chết ngổn ngang hình hài méo mó. Từng nhúm xương chắp vá vô tình đêm tối mò tìm”. Một giấc ngủ chập chờn, ám ảnh chiến tranh. Một giấc ngủ nhân chứng sau hậu chiến: Dị ứng chiến trường dẫn đến con người bệnh hoạn tinh thần như hậu quả chất độc màu da cam.
Người ta sẽ quên họ như quên một chùm hoa dại chiến hào! Lại một lần nữa, “Khúc Huyền ca” gợi cho người ngàn sau, hưởng phước thanh bình hãy nhớ người đã nằm xuống như Giang Nam ngày nào đã khóc người yêu “nay yêu quê hương vì trong từng nấm đất có một phần xương thịt của em tôi”.
Tóm lại, thủ pháp phá vỡ cấu trúc ngữ pháp trong “Khúc Huyền ca” đòi hỏi khả năng cảm thụ thế giới và khả năng cầm bút vững vàng. Thủ pháp này, vui vui thì có thể gọi là “thủ pháp ngoại ngữ” (tính từ đi trước danh từ như hot water – nóng nước thành nước nóng, long nails – dài móng tay thành móng tay dài…) hay cách hiểu ngược từ mà trẻ em người Việt khi dịch Anh sang Việt (đọc ngược từ như vịt lộn thành lộn vịt, thịt heo thành heo thịt…).
Thủ pháp này rất hợp cho thơ, trường ca và nó kén độc giả nhưng nếu thẩm thấu một tác phẩm mới về nghệ thuật mà hiện nay, bá quan văn võ chuyên dùng là từ “cách tân” thì lý thú vô cùng. Cái mới chẳng phải cứ là câu chữ thả đầy xuống giấy, bừa bãi xuống dòng, vô cớ cắt khúc, ngang ngược xẻ dọc, đánh đố độc giả mà ngay cả chính tác giả cũng chẳng hiểu mình từ ngữ mình viết ra có giá trị, ý nghĩa gì? Cái mới nằm ngay trong người viết. Không giải phóng được tư tưởng: Viết về cái gì? Viết cho ai đọc? Viết trên tinh thần nào? Thì đừng hòng gọi là cái mới cho thi ca. Nếu tác phẩm có được sự “kông kênh” hôm nay thì ngày mai, thời gian sẽ tự đào thải nó.
2. Câu thơ như một châm ngôn mới:
Châm ngôn là những câu có tính cách khái quát chung một ý nghĩa lớn, một tư tưởng quảng thông có tính thời gian, tính nhân loại và có giá trị như ngọn đèn hải đăng trên biển. Một bài thơ hay chưa chắc đã có câu châm ngôn nhưng câu châm ngôn chắc chắn phải nằm trong một đoạn thơ hay trong một bài thơ, trường ca trên điểm trung bình.
Cần phân biệt câu, đoạn thơ hay với câu châm ngôn.
Ví dụ: Một đoạn thơ cảm động, sâu lắng trong “Núi đôi” của Vũ Cao:
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi: em đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Đây là đoạn hay trong bài thơ hay (hay của vài bài thơ hay trong cuốn sách chẳng hay gọi là “100 bài thơ hay nhất thế kỷ”?!) nhưng nó không có câu châm ngôn nào.
– Cần phân biệt ranh giới giữa thơ hay, châm ngôn và thơ châm chích:
Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.
Bài thơ 4 câu “Ăn mày” của Đồng Đức Bốn trong 100 bài thơ hay nhất!? Loại trào phúng này nằm la liệt trên đường văn học. Nó hay với giọng trào lộng nhưng cái gì cũng vậy, tiến sĩ, giáo sư hay học sinh ngồi “nhầm chỗ” thì cũng vào một… hố của sự tuyển chọn cẩu thả, cần…tiền chứ không cần tài, là đấy. Nghệ sĩ hài kịch, đạo diễn biểu ra hát cải lương đại đi mày, hát được chớ, xong, ăn cà chua, trứng thối, tối ngủ khách sạn ngàn sao! Chuyện thường của “cái nước mình nó như thế đấy” của Hoàng Ngọc Hiến.
– Cần phân biệt thơ và ca dao: “Bông và mây” của Ngô Văn Phú trong 100 bài thơ hay nhất?! Nhưng nó là ca dao từ xưa đã học đâu có thấy nói đến tác giả này và có những từ chưa thống nhất (những cô má đỏ, có cô má đỏ, mấy cô áo đỏ…). Gọi nó là ca dao hay thơ?:
Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng, bông trắng như mây
Những cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng.
– Cần phân biệt thơ với thơ dịch. Hai loại này khác nhau xa lắc. Ví dụ bài “Nguyên tiêu” của Hồ Chí Minh (100 bài thơ hay nhất?!).
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
1948
Dịch nghĩa:
Đêm rằm tháng riêng
Đêm nay, rằm tháng riêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xanh.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, ánh trăng đầy thuyền.
1948
Dịch thơ:
Rằm tháng riêng
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
XUÂN THỦY dịch
Ta thấy bất ổn: Thứ nhất: Bài thơ chữ Hán nên khó có thể khẳng định nó hay hoặc dở. Muốn thẩm định nó, cần có người giỏi chữ Hán hòa âm. Nhạc sĩ hòa âm này cũng… chẳng giỏi, giết luôn bài thơ. Vì sao? Lời dịch trên, như một thể loại văn xuôi, chẳng có gì gọi hay chứ đừng nói hay nhất. Loại văn tả cảnh này, văn học Việt Nam phải nói là “rừng”! Vậy thì… bám vào bản dịch. Sông xuân, nước xuân, trời xuân, “xuân thiên” dịch thành “trời màu xanh” cũng tạm. Nhưng, đêm “trăng thu lồ lộ sáng banh, ai mà thấy được trời xanh, tớ… cùi!
Thời điểm cuối năm 1947 tới đầu xuân1948 là thời kỳ chiến dịch Việt Bắc thu-đông chuẩn bị kháng chiến toàn quốc nên chẳng còn con sông nào êm ả như thế để tác giả bàn bạc việc quân trên sông.
Thơ là người. Người cảm cảnh mới sinh tình, từ tình mới ra thơ. Chẳng biết tác giả “Nguyên tiêu” cảm cảnh sông nào ở miền Bắc thời loạn chiến mà có khói có sóng? Có đồng chí cán bộ nào ở trên thuyền thời đấy với tác giả mà hiện nay còn sống thì may ra… Một điều quan trọng nữa là: Hồ Chí Minh luôn dạy giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt để bảo tồn văn hóa Việt Nam như Minh Huệ trong bài “Giữ gìn tiếng Việt trong sáng theo gương Hồ Chí Minh” (Báo văn nghệ, cinet.gov.vn) Bác đã nhiều lần thẳng thắn nêu lên những cái tật trong viết và nói, làm cho nghèo đi, làm vẩn đục cái kho tàng và môi trường tiếng Việt. Chẳng hạn, cái tật “vay mượn lu bù” chữ Hán để “lòe thiên hạ” (cũng như hiện nay, đang rộ lên các mốt khoe khoang tiếng Anh)”.
Đan Tâm trong “Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt” (nhandan.com) cũng lấy gương Hồ Chí Minh: “Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng, luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục nhân dân ta phải làm cho tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại. Ðể giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt theo tấm gương Bác Hồ, đề nghị Nhà nước có quy định chặt chẽ, các cơ quan báo chí và cơ quan nhà nước phải nêu gương và Viện Ngôn ngữ học phải có trách nhiệm đề xuất, xây dựng quy định chuẩn về việc dùng từ tiếng Anh trong các văn bản, nhất là văn bản chính thức của Nhà nước. Các trường học phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.
Tại sao Hồ Chí Minh lại có nhã hứng làm thơ chữ Hán ngay thời điểm chiến tranh chống Pháp và ngay trên đất nước nói toàn tiếng Việt? Lạ nhỉ? Bài (dịch theo) tiếng Việt trong trẻo, thể thất ngôn đầy đủ luật khác:
RẰM THÁNG GIÊNG
Trăng vừa tròn bóng giữa tháng giêng
Ba xuân sông, nước, quyện trời nghiêng.
Giữa dòng khói sóng bàn quân sự
Nửa đêm về lại trăng đầy thuyền.
Như vậy, không thể nào mang thơ chữ Hán bản dịch mà đánh giá, xếp loại như thơ tiếng Việt.
Câu châm ngôn mới phát sinh: “Đừng nên miệng nói hay mà làm dở. Đã làm người phải thở, phải ăn”! Tiếng Việt trong hai câu này trong sáng hoàn toàn.
Ví dụ thêm trong hai câu “Một đời người ngắn ngủi thoắt, chóng qua, chỉ có thời gian là không già, không trẻ” thì câu “Chỉ có thời gian là không già, không trẻ” là một câu châm ngôn. Trong bài “Dậy mà đi” của Tố Hữu với đoạn màu đậm là châm ngôn:
Dậy mà đi! Dậy mà đi!
Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi ?
Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần ?
hay đoạn: Dậy mà đi, hy vọng sẽ thành công
Rút kinh nghiệm ở bao lần thất bại:
Một lần ngã là một lần bớt dại
Để thêm khôn một chút nữa trong người.
Trường ca “Ngày đang mở sáng” có những câu châm ngôn “tiếng Việt trong veo” nằm trong các đoạn thơ hay như sau:
– Khúc III, đoạn 7: “Cô đơn nở sinh khát vọng”:
Mơ
Hoa Xuyến Chi trắng muốt cánh đồng, dòng sông bình yên ru qua ngôi làng nhẹ khói sương.
Hương sớm thơm tóc em lấm láp mùa màng.
Rất xa đàn chim di cư lao xao mô đất đầu làng chọn ngày sinh nở, đất dậy mùi cỏ non vọng vang sự sống.
Cô đơn nở sinh khát vọng.
Trong vô biên sáng mới, tôi hát ngợi ca sáng tạo.
Mặt đất nâng tôi qua nồng ấm bình minh vang tiếng gọi Người.
– Khúc V: đoạn thứ 4: “Chiến tranh không có con đường thứ ba”:
Đêm úp mặt
Những vì sao vụt tắt
Trận đánh kéo dài
Chúng tôi phải sống.
Chiến tranh không có con đường thứ ba.
Mẹ ta giờ đã ngủ
Nước mắt chảy khô đêm mưa rét?
Câu châm ngôn này lặp lại ở Khúc X:
Chiếc giếng cạn ngày xưa
Giờ là nấm mồ chín người lính nguỵ
Những cái chết vô danh không tên không địa chỉ.
Mẹ các anh ở đâu?
Em gái các anh đâu?
Cơn gió trống hàng cây run rẩy.
Tắc kè nghiến vào đêm
Tiếng kêu côi cút!
Tôi thắp một nén hương
Tàn nhang quẩn một vòng tròn trống
Chiến tranh không có con đường thứ ba!
Một vì sao vụt tắt xa mờ.
– Khúc XI, là khúc cuối có nhiều câu châm ngôn nhất với đoạn 3: Sự sống sinh ra sau cái chết già. Không có bữa tiệc nào dọn sẵn:
Người cuối cùng níu vào trời mây
Níu vào sóng biếc
Kiệt sức cắm lưỡi kiếm đầu tiên lên mặt đất
Sự sống sinh ra sau cái chết già.
Không có đại lộ trần gian
Không có bữa tiệc nào dọn sẵn
Ánh sáng nâng niu qua nỗi khổ đau.
– Khúc XI, đoạn 5 “Không ai độc chiếm hào quang”:
Máu vẫn rơi mặt đất tanh nồng dục vọng.
Không ai độc chiếm hào quang.
Những sinh linh bé bỏng yếu mềm dựng lên gương mặt trần gian.
Chúng ta bước lên kiêu hãnh.
Đừng rụt rè và đừng e ngại.
Lửa đang sáng lên ở phía chân trời.
– Khúc XI, đoạn cuối “Nếu em không cùng đi, hạnh phúc không đường đến” và “Không có mặt trời cho một mặt trời“:
Ta sẽ đợi cho dù đêm nay đêm mai và ngàn ngàn đêm tới, sẽ cùng em xuống con tàu khát gió trùng khơi.
Nếu em không cùng đi hạnh phúc không đường đến và trò chơi tạo hoá cười vang ngạo nghễ mỉa mai.
Đừng e ngại em ơi
Con đường nhọc nhằn gai bụi.
Tất cả quanh ta
Cánh đồng núi đồi biển cả
Nâng bước chân qua u tối đau buồn.
Không có mặt trời cho một mặt trời
Ánh sáng nơi nơi toả rạng
Vang ca sự sống ngời sinh./.
Những câu này có thể dùng làm đề thi, luận văn cho các cấp bậc đại học trở lên. Xem ra, các đề văn này cũng thú vị và “mới” hơn mấy ngàn đề thi đi, copy lại đầy trên các cửa hàng sách!
3. Ngữ đầy tính ẩn dụ:
Ta thấy “Khúc Huyền ca” đầy những câu nhiều ẩn ý, giàu hình tượng, lắm tượng trưng có thể tự gợi lại cả một giai đoạn, một thời kỳ lịch sử:
– Tảng đá già nua cũ kỹ:
Làm sao có thể bay lên
Hái nụ hoa e ngại
Những tảng đá già nua cũ kỹ chắn đường
Đây không phải là tảng đá thật. Có thể là một hệ tư tưởng cũ kỹ nào đó chặn đường. Trần Anh Thái đã để lại… vết lông ngỗng Mỵ Châu khi xây dựng hình tuợng này. Tảng đá chắn đường thì chắn bàn chân, đâu chắn đôi cánh? Nếu thật sự có cánh thì Ngũ Hành Sơn có làm gì được Lão Tôn?
Vậy thì, tốt hết, cho nổ trái mìn. Thằng đá banh thây thì mình tha hồ đào sông lấp núi, thực hiện giấc mơ Nữ Oa đội đá vá trời!
Trần Anh Thái đá vào “tảng đá già nua cũ kỹ“, Nguyễn Đức Mậu “để bàn chân vấp vào giới tuyến” – cũng là hoán dụ (bàn chân-chỉ con người), có ý nghĩa tượng trưng khi dùng cụm động từ có bỗ ngữ “vấp vào giới tuyến“: “Giới tuyến” là lằn ranh có thể thấy bằng mắt thường nhưng không thể dùng “đá, vấp, đụng, đạp, đánh, đập, va, chạm”. Khi đã dùng thì nó mang một nghĩa khác có tính cách ẩn dụ: “Giới tuyến” với trường hợp Nguyễn Đức Mậu dùng trong “trường ca sư đoàn” là nỗi đau chia cắt đất nước.
Những tảng đá cũ kỹ này mà nằm chình ình trên con đường mòn vô định rong rêu nữa thì chỉ dành cho Tôn Ngộ Không! Lịch sử Việt Nam và lịch sử văn học Việt Nam cùng “ngược thời gian trở về quá khứ phút giây chạnh lòng” để thấy ẩn dụ sâu sắc của “tảng đá già nua cũ kỹ” này!
– “Tảng đá già nua cũ kỹ” chỉ ôm lấy Liên Xô – Trung Quốc với thời kỳ “Cải cách ruộng đất“ kinh sợ. Nó chẳng khác nạn diệt chủng trên thế giới khi một thành phần giai cấp phú nông, địa chủ bị xóa sổ và hàng loạt gia đình những người có công cách mạng hay liên quan kháng chiến cũng tiêu tán đường năm (1953-1956). Cả người mẹ nuôi của các ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, mẹ của một trung đoàn trưởng lĩnh án tử hình hay bắt giam luôn tướng Vương Thừa Vũ… Năm sau, 1957, nhà nước Việt Nam dân chủ mới sửa sai dẫn đến sự ra đi của Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương… và cho đến bây giờ đám mây đen thời kỳ bão tố vẫn trùm lên lịch sử.”Không sai mắc mớ sửa sai. Siêng năng ai lại… bói bài kiếm ăn”!.
– “Tảng đá già cũ kỹ” trong vụ “Nhân văn – Giai phẩm” năm 1956 – 1958 dẫn đến nguyên soái thi đàn Tố Hữu “con chốt” trên ván bài “Tào Tháo tráo đấu đong gạo”, đưa lưng cho anh em nghệ sĩ… chặt, xìa mặt cho văn sĩ… chửi! Những giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước tặng Cao Xuân Huy, Văn Cao, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Trần Dần hòng “xoa dịu vết thương”… nhưng không lẽ “Nhân văn – Giai phẩm” chỉ có bấy nhiêu người đó… vô tội? Có công thì thưởng, có tội thì phạt. “Vô công bất thọ lộc“, những người đó có công lao gì? Nếu họ có công mà bị xử oan, nay được minh oan thì kẻ xử oan thời đó, giờ sao không bị giáng tội? H
– “Tảng đá già nua cũ kỹ” sau 1975: Toàn bộ nền văn hóa miền Nam bị xóa tên trong biển lửa nhưng bây giờ những cái tên là nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ… thời ấy lại được nối dài theo lịch sử “Hận Đồ Bàn“. “Sự sống sinh sau cái chết già“. Té ra là thế! Thơ “tre trúc” ra lò:
Thế sự chuyện của má, ba
Sinh sự là chuyện của nhà viết… drăng (văn).
Chừng nào voi hết cỏ ằn (ăn)
Nhà… drăng (văn) mới chịu lấy khằn bịt môm (khãn bịt mồm).
Chừng nào hết hố, hết bom
Nhà quan (quàng) mới hết bán hòm kiếm ăn!
Hãy cùng bay với giấc mơ của tuổi thơ anh lính nhí Trần Anh Thái ”sinh sự” trong trường ca của mình:
– Cánh diều con tàu khát gió:
Chiếc hộp giấy đựng bầu trời
Vỏ sò và ốc biển,
Cánh diều con tàu khát gió
Ánh nhìn và dòng máu không ngừng chảy.
“Cánh diều”: Nghĩa thật chỉ là một trò chơi bằng giấy ở đồng quê, nâng cấp lên thành những cuộc thi“thả diều nghệ thuật” như Festival Diều tại Cervia hay Hà Tây, Hội An năm 2006. Một tập tục lành mạnh, bổ ích cho tăng tính tưởng tượng cho con người trong việc sáng chế ra từng cánh diều độc đáo với những màu sắc rực rỡi, tân tiến hình thức, chất lượng nội dung, bay lượn trên không gian mang đến cho con người cảm giác hòa bình, an lạc.
Nghĩa bóng của nó ai cũng biết:“cánh diều” (như con tàu) là hình ảnh tượng trưng cho ước mơ hòa bình và khao khát tự do. Người khát nước. Đời khát vọng. Cánh diều như con tàu kia cũng như người nhưng nó uống nước thì nó… chìm, nó rách. Thuyền đi dưới nước. Diều bay lên trời. Ngược đời, lập dị, không thích hợp với khả năng vốn có, mọi thứ thành… Hàn Mặc Tử! Không có gió thì diều kia… xụi lơ như em bé thiếu sữa mẹ. Nó khát gió là phải. Từ dùng chính xác, đầy ẩn ý là thế!
4. Từ ẩn dụ:
– Nhện giăng
Bóng tối loà nhoà
Tiếng đêm xé gió
Nhện giăng ngang đường.
Ẩn ý một cái gì đó hoang tàn, bụi bặm không giống con nhện giăng tơ cầu duyên trong ca dao: “Buồn trông con nhện giăng tơ. Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?”. Nó cũng chẳng giống con nhện tám mắt chuyên giăng bẫy ruồi cười con tằm kéo kén “Nhện kia giăng bẫy bắt ruồi. Thấy tằm kéo kén vừa cười vừa chê” trong truyện ngụ ngôn của La Fontaine. Nó cũng khác những con nhện ma trong Tây Du Ký chuyên hút máu người.
“Khúc Huyền ca” xuất hiện một tính từ, vừa danh từ:
– “Thương tích – Vết thương” bao hàm chỉ một nghĩa ẩn dụ độc đáo về chiến tranh mà các trường ca khác chưa nắm bắt ý nghĩa nhân bản này. Nó bắt đầu từ thương tích của trường ca thứ hai: Trường ca “Trên đường”:
Tôi mơ cánh đồng
Dấu tuyết khô còn lạnh
Trận chiến xưa thương tích chưa lành
Đây đúng là vết thương chiến tranh mà trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời” cũng thấy rõ: “Chiến tranh đi qua dọc con đường đầy hoa tươi và vòng tang trắng. Nắng tháng năm nhòa gương mặt thời gian” cả khi“Đôi lúc ông ngồi thở dài đếm huân chương gói trong ba lô còn hoen vết máu”.
Bom chết đào huyệt. Bom sống ẩn mình. Đạn trúng người, người đi. Đạn trúng cây, cây ngã. Người chết hồn chưa tan. Người sống thẩn thờ theo thời gian tính bằng bom đạn. Một thương tích thời gian không thể nguôi ngoay. Nó chẳng phải là “cái vết thương xoàng mà đi viện” của Phạm Tiến Duật. Nó cũng chẳng phải là vết thương huân chương.
Sang “Khúc Huyền ca“, ta thấy có 3 thương tích và 2 vết thương:
Bàn chân rớm máu
Con đường
Tôi lặng lẽ lau khô thương tích.
Thương tích này ẩn dụ như vết thương thời cuộc. Những va vấp đời thường phát sinh ngay cả trong chiến tranh và nhất là sau chiến tranh mà Nguyễn Anh Nông xót thương bố mình – thương binh tay trắng “Nào ai người nằm lại chiến trường xưa? Ai đào ngũ giờ yên lành mây trắng?”.
Đất nước mở ra đến đâu máu chảy đến đấy. Con người tự hủy hoại nhau, tự phá hỏng giá trị đạo đức truyền thống nhân văn bằng tất cả những loại hình. Tâm trạng hoài cổ, tiếc nuối thời vàng son của giá trị đạo đức xuất hiện.
Người canh đền đã xưa
Thương tích hằn thế kỷ
Chiếc đỉnh thờ u uất khói hương.
Thương tích này là vết thương hoài cổ về điều nói trên. Nó không nằm trong vết chém của Nguyễn Đức Mậu ”đất đai mang vết chém trên người” trong “Trường ca sư đoàn“ về mặt chia cắt. Nó khác vết chém ngang lưng của Duyên Anh trong “Chiến tích” về sự “thắng làm vua” nh ưng “thua kh ông đ ư ợc làm giặc” và không tiên thuật như “những vết sẹo biết tự mình phát sáng” của Mai Văn Phấn trong trường ca “Người cùng thời”. Những vết thương này, chúng giống nhau ở chổ chẳng thấy được để… “xát muối ớt” chơi nhưng khác ở chỗ: Con ngựa thì vẫn có thể bị chém thật nhưng đất nước trong các trường ca của Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Khoa Điềm… thì làm sao mà chém? Muốn chém phải đưa nó về cùng loại. Phép nhân hóa làm được. Cái đau của con người khi đất nước bị chia cắt bằng cái đau của đất nước khi bị phân ranh. Hai mà một. Chém kiểu nào cũng đau cho người trong cuộc. Với một phép nhân hóa: Đất nước cũng chính là con người. Nguyễn Đức Mậu để cho “đất vá lành vết thương mặt đất” trong “Trường ca sư đoàn” cũng có ý này như “Khúc Huyền ca“:
Vết thương bết máu
Mảnh đất xác xơ
Cơn gió tựa vào vòm cây bật khóc.
Vết thương bao hàm hai chiều bóng và thật “Đất đỏ dọc chiến hào bết máu”. Nó không như “vết sẹo tuổi thơ” của Thu Bồn vì “mảnh ngói lia thia” làm “anh đứt tay vì mắt em sắc lẹm”. Nó khác với vết thương mà Nguyễn Anh Nông “âm ỉ” với vết thương hai nghĩa của người bố “Vết thương trong người nhức nhối hoá như không. Bị thương, bố giữ âm ỉ riêng mình (Người ta bị thương – người ta chia xẻ)”.
“Khúc Huyền Ca” nhiều thương tích hơn cả nay mới chịu xẻ chia:
Kẻ thất trận dưới chân đồi lê bước
Kéo hoàng hôn rã rời
Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc
Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau.
Thương tích này là vết thương lịch sử và cũng là “thương tích” của người lính biết nghĩ cho người lính nói riêng không phân biệt là bạn hay thù và cũng là vết thương của người biết nghĩ cho người nói chung. Đây chính là vết thương nhân văn mà văn học Việt Nam đã đánh mất trong chiến tranh và ngay trong thời hòa bình.
Một cơ chế bao cấp hoặc thể chế chính trị nào cũng vậy, áp dụng cho bất cứ nước nào, sản phẩm của nó là sinh ra bên cạnh những người tốt sẽ phải có những hạng người tha hóa đạo đức để cân bằng sự quân bình xã hội. Tuy nhiên, một nghề giống nhau nhưng động cơ khác nhau sẽ dẫn đến một thang điểm nhân cách khác nhau. Vì sao Nguyễn Du trân trọng, nâng niu nhân vật Thúy Kiều? Vì sao nhà văn Gabriel García Marquez (nobel 1982) tác giả của “Trăm năm cô đơn” lại nâng niu nhân vật 14 tuổi đi làm gái điếm cho một nhà báo 50 tuổi trong tự truyện “Memoria de mis putas tristes– Memories of My Melancholy Whores” (Hồi ức về cô gái điềm của tôi)? Chính vì tình người và tính người.
Nhân vật cô bé ngày thơ của người lính cũng được Trần Anh Thái… tặng cho một vết thương:
Trả giá
Bỏ qua những cánh hoa yếu đuối dọc đường
Qua cánh rừng vực thẳm
Cơn khát cháy khô
Mơ một ngôi nhà lạ
Em rịn thuốc xoá vết thương ngày xưa.
Vết thương này là vết thương lòng.“Vết thương” tự mình chữa lấy ở chỗ nó có động từ “xóa” đi kèm. Chính là chìa khóa mở cho người bị thương một lối thoát. Nhân vật này tự mình làm… bác sĩ gia đình. Trần Anh Thái nâng niu nhân cách của cô không phải bằng từ ngữ trau chuốc như Nguyễn Du dùng để ví giọt nước mắt Thúy Kiều như châu, như ngọc, như băng như tuyết mà Trần Anh Thái chỉ “điểm” một từ “xóa” đã nâng nạn nhân lên một vị trí cao hơn về tính cách: Không tủn mủm, kể lể, kêu khóc hay phàn nàn số phận mà nạn nhân tự đứng lên làm lại cuộc đời.
Ta có thể so sánh với “Trường ca sư đoàn” của Nguyễn Đức Mậu: Trường ca này có 6 vết chém, vết thương, bị thương, thương tích, vết máu:
– Vết chém: “Đất đai mang vết chém ngang người”.
– Sông Thạch Hãn: “Nhiều thương tích chiến tranh như thế?”
– Người bị thương có nghe sông hát
– Có vết thương mưng mủ
– Đất vá lành vết thương mặt đất
– Vai áo anh còn vết máu bạn bè.
Hữu Thỉnh chỉ có một vết chém trong “Cổ nhân vẫn còn đây. Máu chưa lành vết chém” cho “Trường ca biển” và “hai vết thương vì rừng, ba vết thương vì pháo” cho trường ca “Đường tới thành phố”. Vết thương này là vết thương bị thương như Trần Anh Thái tả vết thương ông già trong trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời”: “Đôi lúc ông ngồi thở dài đếm huân chương gói trong ba lô còn hoen vết máu”. Chúng cũng chỉ là vết thương của đạn bom thật sự chứ chưa nâng cao ý nghĩa sâu sắc là thương tích.
Trường ca “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương cũng chỉ có vết chém của đá “Cạnh sắc đá còn hằn nguyên vết chém” và dấu tích: “Dấu tích tháng năm buồn. Nghèo khó cắn xé nhau” và “dấu tích thời binh đao” vì tay bị thương “không còn co lên trước ngực” còn trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm… chẳng tìm ra vết chém hay vết thương nào cả!. Xem ra, “cổ xưa xe ngựa hồn thu thảo” của Bà Huyện Thanh Quan có thể dùng chuyên chở những người bị thương về hai phần thể xác và tâm hồn về bệnh viện tâm sinh lý chiến tranh là êm ái nhất.
Với từ “thương tích”, Trần Anh Thái đã sử dụng phép ẩn dụ mang một ý nghĩa có tính chất lịch sử và nhân văn. Vết thương nào thật giả cũng để lại chỉ là vết sẹo. Một người với thân thể đầy vết sẹo (có thể nhiều nguyên nhân tai nạn giao thông, chém lộn, đạn bom…) so với một người mình đầy thương tích (có giá trị chứng nhân lịch sử như bị tra khảo, bị đánh đập, bị hành hạ…) thì người thứ hai cần điều trị về hai phần thân thể và tâm hồn. Những thương tích thấy được bằng mắt thường thì có thể chữa được nhưng thương tích không nhìn thấy được mới là vết thương chìm, đau đớn lặng lẽ và khốc hại khôn lường như người bị chất độc hóa sinh hay chất độc sinh hóa.
Thương tích chiến tranh không dừng lại ở quan điểm dân tộc mà nó bức ra ngoài hàng rào chiến cuộc để góp mặt chung với thương tích lịch sử của tất cả mọi trận chiến bất kể là chúng phi nghĩa hay chính nghĩa.
Mở lòng và tôn trọng nhân cách con người chính là chiến thuật hữu hiệu nhất, lương thiện nhất để dọn đường trải thảm đỏ cho hàng tướng hay kẻ chiến bại hoặc nhân sĩ về với mình. Tào Tháo là một kẻ gian hùng trong chiến tranh nhưng là một kẻ thực sự có tài dụng binh, thâu người mà người có nghĩa khí, trung dũng như Quan Công cũng phải chịu ơn và từng chấp nhận làm “hàng tướng có điều kiện” dưới tay Tào Tháo.
Như vậy, vết thương hay thương tích trong “Khúc Huyền ca” có một giá trị đặc biệt: Đó là cách dùng từ độc đáo tóm hết ý chính của cuộc chiến tranh với một hậu quả khôn lường cho thế hệ ngàn năm, ngàn năm sau nữa. Nó chính là nỗi đau của lịch sử về anh em tương tàn, cốt nhục phân tranh; nỗi đau của dân tộc về những giá trị truyền thống bị đánh cắp bằng bom đạn và bị tiêu hủy vì lòng hận thù ngút trời!
Các trường ca khác chưa có dịp “để mắt” tới nhưng “Khúc Huyền ca” đã đi trước một bước. Một thử nghiệm cần có trong chính sách đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận thù bằng văn học để “văn học là nhân học” một lần nữa thấy lại bóng mình trong gương thần. Nó độc đáo là thế!
II. Thủ pháp “độc đáo” khi tái tạo những bức tranh tương phản:
Tính độc đáo: Là một thuật ngữ dân gian dùng để chỉ chung cho những gì khác biệt mang tính chất tốt đẹp không có cái thứ hai.
Trong hội họa, nét độc đáo thường dành cho những cây cọ với những bức tranh độc đáo xuất thần chẳng ai bắt chước nổi như những bức họa đạt kỷ lục đấu giá thế giới như “Chân dung bác sĩ Gachet, Hoa diên vĩ“… của Vincent Van Gogh; “Garçon à la pipe” (chàng trai ngậm tẩu), “Dora Maar au Chat” (Dona trên ghế ngồi) của Pablo Ruiz Picasso hay bức chân dung người đàn bà có nụ cười bí hiểm độc đáo “Mona LiSa” của Leonardo da Vinci…
Trong âm nhạc là giai điệu độc đáo như trong bản giao hưởng số 35 của nhà soạn nhạc vĩ đại Wolfgang Amadeus Mozart hay bản giao hưởng số 2, số 9 của Ludwig van Beethoven. Âm nhạc Việt Nam có dòng nhạc du ca thời chiến “độc nhất vô nhị” của Trịnh Công Sơn…
Nhạc cụ Việt Nam có đàn bầu, đàn nhị, đàn nguyệt độc đáo. Trong truyền thống văn hóa, áo dài Việt Nam được gọi là độc đáo Việt Nam. Món ăn địa phương là những món độc đáo ba miền. Trong văn học gọi là phong cách độc đáo. Nhưng trong nét đẹp tự nhiên, hoa hậu đã mất vẻ độc đáo khi “sáng mở mắt thấy người thi hoa hậu, tối về nhà, thấy ảnh… hậu, người… hoa!”. Việt Nam ra ngõ gặp anh hùng biến mất nhường chỗ cho hoa hậu đủ thứ hầm là lằng. Thầu “ba vòng” này hốt vàng, công chính ngôn thuận hơn thầu… “bán trôn”! Thương tích hoa hậu ghi vào lịch sử truyền thống nhân văn dân tộc còn đang bỏ ngõ…
Chính cái người ta không có, mình có thì gọi là độc đáo. Nói như giang hồ “không đụng hàng”! Nét độc đáo trong các lĩnh vực khác như chị em Thúy Kiều “mỗi người mỗi vẻ” nhưng trong văn học, nó như chiếc lá chiến trường mùa đông!
Trường ca “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” – chiếc lá chiến trường mùa đông độc đáo còn sống sót sau cơn giông. Vậy thì coi nó có gì mà dám cho “độc đáo”?
Công trình tái tạo khung cảnh chiến tranh tương phản:
Tác phẩm văn học dân gian, truyện thơ… phần lớn những kết thúc đều có hậu theo quan niệm của quần chúng nhân dân “Ác giả ác báo”, “Ở hiền gặp lành”, “Tham thì thâm“… Bất cứ một thể loại nào nếu tác giả tái tạo được quá khứ, hiện tại và tương lai với hai chiều tương phản với kết thúc có hậu thì tác phẩm đó đã tự có giá trị thẩm mỹ mà không cần phải ”ép” tác phẩm mình phải theo chủ nghĩa hiện thực, lãng mạn hay phương pháp siêu thực, siêu hình, siêu nhân…gì cả.
“Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” là một công trình văn học nghệ thuật mà nhân vật tự tái tạo khung cảnh chiến tranh tương phản độc đáo.
1. Tái tạo một bức tranh lao động qua 3 thời gian độc đáo:
Việc thể hiện một cảnh lao động cực nhọc trong các trường ca nói chung thường rất dài và hầu như xuyên suốt tác phẩm. Điển hình như trường ca “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương (18 phân đoạn); “Trường ca biển” (6 phân đoạn) và “Đường tới thành phố” (5 phân đoạn) của Hữu Thỉnh, trường ca “Người cùng thời” (10 chương) của Mai Văn Phấn…
Theo cách dàn trải này ví von giống như trường ca rơi vào trường hợp liên quân “dàn quân qua bãi sa mạc Irag” dễ bị phục kích tức thiếu tính cô động và sa vào loãng nội dung.
Với hai trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời” (9 mục) và “Trên đường” (7 mục) Trần Anh Thái vẫn còn dàn trãi cảnh lao động nhưng tới trường ca “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng”, mọi thứ trong 11 phân đoạn không có tên nhưng hầu như, tác giả đã dựng lên những bức tranh cô động được từng khúc (trừ khúc IV và V có thể nhập chung).
– Trong khúc I: Từ cánh đồng đến biển trời, từ con vật đến con người chỉ trong 13 câu ngắn gọn là thành một bức tranh đồng khô, cỏ cháy:
Giọt giọt cánh đồng
Run cơn khát
Bóng người ngày đổ
Xơ xác tàn bay
Biển chật vật bên bờ đá trắng,
tiếng cuốc kêu đói lả cánh đồng, niêu cơm trống mắt,
ánh nhìn ngơ ngác hiền khô quên ngày tháng năm sinh,
Luôn bất chợt giật mình
Cúc áo cài lộn ngược.
Không có hoa mào gà cánh đồng khô nứt nẻ,
bé thơ đứng cắn ngọn cỏ gà chớm nở bình minh
Ngày dần sang,
Hoàng hôn khép vào đêm nhàm chán.
Cánh đồng thiếu nước. Nó khô cháy đến nổi muốn đốt người thành tro than. Loại hoa chịu khô như mào gà cũng mọc không nổi trên cánh đồng nứt nẻ ấy. Biển cũng cạn nước bên bờ đá. Con cuốc kêu đói lả ruột. Người lao động cật lực trên đồng với nồi cơm chẳng có một hột. Cái đói và khát làm họ hầu như quên mất mình.
Bức tranh đồng quê đói nghèo này có mặt khắp các trường ca. Bức tranh có giá là bức tranh vẽ đầy đủ một không gian bốn chiều (ngang, dài, rộng, sâu) mà tác giả không hề nhúng tay vào để làm MC dẫn chương trình còn người đọc không cần mất công đọc hết trường ca mới tái tạo bức tranh đó một lần nữa trong đầu (nào cánh đồng, nào biển, nào người, nào vật, nào hoa ngồi chung một mâm đói khát).
Nửa bức tranh khát đói phát sinh một niềm tin “Cô đơn nở sinh khát vọng” với hình ảnh em bé vô tư cắn ngọn cỏ gà mới nở lúc bình minh hay em bé cắn ngọn cỏ gà, bình minh chớm dậy. Bức tranh có hậu với cảnh ngày đói được hoàng hôn tiễn vào đêm đề chờ ngày dần sáng…
Bức tranh thấp thoáng ánh mặt trời là đây mà không một trường ca nào vẽ hai cảnh tương phản như vậy trong cùng một bức tranh. Nó độc đáo là thế!
2. Tái tạo hình ảnh người mẹ qua 3 thời gian độc đáo: Với 10 câu thơ chỉ 3 đoạn nhỏ với 3 ý khác nhau (không trường ca nào tái hiện mà có số câu ít như vậy về người mẹ), Trần Anh Thái đã vẽ một bức tranh cảm động về người mẹ:
Mẹ ra đi trong đêm
Sương khuya mò bóng
Thượng đế ở đâu nơi hốc mắt thẳm sâu
rười rượi luống cày, chim sếu co ro ngày không gió.
Đỉnh của ngày
Người đổ xuống cánh đồng cơn đói mờ run
Khát bàn tay lạnh.
Ngọn lửa xa xôi đôi mắt con thơ
Người tựa vào đôi mắt ấy dò tìm
Run rẩy vịn qua tháng năm gầy mòn yếu ớt.
Với 4 câu đầu: Hình ảnh người mẹ một mình đếm bóng ra đi trong đêm khuya sương khuya. Trong hốc mắt thẳm sâu vì mất ngủ, vì đói, người mẹ hướng về một đấng thiêng liêng đang ngoảnh mặt lại với đời. Cái nóng cháy thiêu luôn cơn gió của ngày. Con chim sếu co rút chẳng thể cất cánh bay.
Với 3 câu tiếp: Trời trút lửa xuống cánh đồng. Người trút… cơn đói mờ mắt, rũ người vào cánh đồng cháy với một khao khát có bàn tay ai đó mát dịu cầm lấy để cân bằng cái nóng chết người giữa ngày.
Người mẹ đi cày trong đêm? Rất có thể lắm vì nếu không có những người cày ruộng là phụ nữ thì sao có bài hát “Đưa cơm cho mẹ đi cày” của Hàn Ngọc Bích (hiện nghi vấn là lấy ý thơ của Tô Xuân Lựu mà không nêu tên tác giả). Tô Xuân Lựu giải thích (Vn.Media.com Hoa Mai,tiền phong-ghi lại):”Trong đoạn này, Hàn Ngọc Bích có đưa thêm câu hát ‘Trời trưa vừa tròn bóng’ lại thể hiện điều phi lý và xa rời thực tế đối với công việc đồng áng. Người nông dân đi cày từ rất sớm, 3- 4 giờ sáng nên chưa kịp ăn bữa sáng. Đến khoảng 7- 8 giờ sáng là họ nghỉ để ăn cơm buổi thì (tức là bữa ăn sáng của người đi cày). Khi trời vừa tròn bóng (tức là buổi trưa) thì họ đã tháo cày để đi về nhà”.
Trong trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời“, Trần Anh Thái cũng kể rõ:
Đồng không con trai cày ruộng
Mẹ ngày cán cuốc oằn vai
Như vậy, “sương khuya mò bóng” trong “Khúc Huyền Ca” đã có thực tiễn chứng minh là hợp lý: Người mẹ này không đi cày thì cũng ra đồng cuốc với thời điểm trên và với sự đói khổ thì thời gian trên đồng lúc khuya khắc sẽ nhiều hơn thế nữa. Hiện thực cuộc sống có thể thay đổi bao nhiêu tùy tác giả tái tạo, chủ yếu là viết như thế nào? Sử dụng ngôn ngữ tạo hình thích hợp trong từng văn bản hay không?
Ví dụ như trong bức tranh trên, người mẹ có thể đi làm trong đêm một công việc gì đó nhưng chi tiết thì lại cho phép người mẹ chỉ có thể lao động trên đồng ruộng mà thôi! Người đọc có thể tự hỏi: Nóng chết nhưng sao lại có sương khuya? Thực tế cho thấy, ngày nóng nhưng đêm cũng có thể lạnh. Sương khuya trong câu này cũng có thể là ẩn dụ cho sự vất vả của người lao động. Thành ngữ: “Một nắng hai sương” là ý này.
Nửa bức tranh còn lại, Trần Anh Thái vẽ thêm trong 3 câu cuối: Đôi mắt thơ ngây của đứa con thơ như có một sức sống, một ngọn lửa thiêng vừa mới bùng lên trong gian khổ. Nó hun đúc cho người mẹ một ý thức con người và bổn phận làm mẹ cần phải vượt qua gian lao và nhất là cần phải sống vì con.
Thực tế trong cuộc đời, không có tình yêu, thế giới này vô hồn, nếu không có con cái thì cuộc sống mất đi giá trị thiêng liêng và nhân loại tự hủy hoại giống nòi.
Với một bức tranh có hai chiều tương phản: Một người mẹ giữa tháng ngày đói khát, khổ sở cuối xuống và một người mẹ với ngọn lửa con thơ hun đúc một sức sống trong cùng một bức tranh ngước lên. Nó độc đáo là thế!
3. Tái tạo một bức tranh tuổi thơ đầy sức sống:
Tuổi thơ của người lính trong các trường ca chiến tranh đều được tác giả xây dựng trong cùng một hệ thống chung tức là hoàn cảnh như thế nào, tuổi thơ như thế đó.
Ví dụ trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, người lính chiến trong ký ức tuổi thơ mở mắt ra đã nhìn thấy:
Những chiếc tàu há mồm ngoạn vào thành phố.
Trên bến đổ quân của trăm năm giặc Pháp.
Trong mắt nó, đoàn tàu quân Mỹ không còn nguyên vẹn là con người mà là những giống ma quỷ như trong văn học Việt Nam đặc biệt là thơ trữ tình, trường ca, ký hay tiểu thuyết của Nguyễn Huy Thiệp. Quân Mỹ được tác giả “vật hóa” là thú ăn thịt người, là những “chó dại, trâu điên và đĩa đói” là “những con cá sấu đại dương” là“của xương trên cánh buồm cướp biển”. Cả đôi giầy của họ cũng bị xem là“răng chó” trong ký ức tuổi thơ dữ dội với một kết luận “tên Mỹ kia, mày bị căm ghét đời đời” (nhưng thay bằng căm ghét, cái thằng “mày” này đã được nghênh đón tại Việt Nam năm 2000 với kẻ đại diện kẻ bị căm ghét là một… thổng thống Mỹ: William Jefferson Bill Clinton ngày 17/11/2000 và thổng thống tiền nhiệm George W. Bush được đón tiếp tại Việt Nam vào tháng 11/2006)!?
“Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm cũng vẽ một bức tranh lính Pháp:
Chợt lũ qủy mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Năm 1941, Tố Hữu đã vẽ lính Pháp trong “Bà má Hậu Giang”:
Một toán qủy rầm rầm, rộ rộ
Mắt diều hâu, mũi chó, râu dê.
Những bá má này đã thành các bà má Tiền Giang đang đòi công lý, đòi đất, đòi trả nợ máu xương trong tháng 8/2007 còn đại diện cho “lũ qủy” đó là tổng thống Pháp Jaques Chirac được đón tiếp tại Việt Nam ngày 07-06/10/ 2003!?
Có nước nào đi đón tiếp long trọng kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mình như vậy không nhỉ? “Một câu hỏi lớn: không lời đáp. Cho tới bây giờ, mặt vẫn chau”. Những ông Phật của Cù Huy Cận cũng… lắc đầu! Vậy mà người ta vẫn nhìn về chiến tranh với “dĩ hận miên miên”! Nghĩ cũng lạ!
Tuổi thơ của người lính trong “Mặt đường khát vọng” sống trong chuỗi ngày “không bình yên” và “lòng đầy khắc khoải”. Nó đã biết… lo lắng cho đất nước và có những câu hỏi vượt chỉ số thông minh kinh người khi nó chất vấn ông thầy “tại sao con học để làm bầy nô lệ” và rất hân hoan khi được “ra trận bằng máu áo trắng” với những nghĩ suy về đất nước, nhân dân, giặc thù mà đến hôm nay, người già cũng không thể dám nghĩ, dám xung phong ra trận như thế cả! Tuổi thơ 18 như thế thì già trước tuổi mất rồi! Bản trường ca trở thành “Trường hận ca” của Bạch Cư Dị:
Thiên trường địa cửu hữu thì tận
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ
(Trời đất còn có thể tận. Hận này chỉ hận triền miên)! Tiêu mẹ cái tuổi thơ! Bạc phơ mái đầu trẻ!
Tuổi thơ trong trường ca “Trầm tích” cũng thế. Canh cánh một nỗi niềm đất nước:
Ngược xuôi trải thành đất nước
Đất nước
Tượng hình xương cá
Đêm úp
Ngày đơm
Nhảy vật lên bờ. Thân gầy đét.
Bức tranh “xương sườn xương sống nuốt trọng người ta, ăn vô nhả ra người ta còn sống” này, đố danh họa nào vẽ nổi?
“Khúc Huyền ca” vẽ được một bức tranh tuổi thơ của người lính: Ngày chẳng vướng bận chiến tranh, đêm ngủ vùi trong vòng tay mẹ.
Một bức tranh khi “Bình minh hé mở“: Khuôn mặt thằng bé với niềm vui trong mùa thu mới, ca hát, nhảy lò cò, mơ về lâu đài cổ tích và trong tay đang cầm những chiếc máy bay (con tàu khát gió), con thuyền (cổ tích) chuẩn bị phóng lên trời, thả xuống biển:
Tinh sương rộ lên giàn đồng ca sáng mới
Tôi bí mật vào nơi cất giấu con thuyền thả về cổ tích
Khát vọng bập bềnh thế giới vô biên
Tôi bỏ quên đám mây buồn bầu trời âu lo trĩu nặng
Quên cơn nắng ran mặt đất khô cằn
Giấc mơ đêm đêm dịu dàng đôi cánh thiên thần về ngôi nhà hoàng tử
Vang động tiếng cười ám ảnh thời gian.
Tôi không nghe tiếng Người âu lo đêm mải chơi quên buổi tối học bài.
Tôi khóc cười trong vòng tay Người nâng niu chăm chút..
Tuổi thơ có những phút giây thần tiên thì hãy vô tư mà hưởng. Đó cũng là tâm lý không thể dùng phép hoán chuyển để nó sớm trở thành tuổi thơ của Lê Văn Tám với ngọn đuốc sống thần kỳ (sản phẩm của Trần Huy Liệu mà Phan Huy Lê công bố là không có thật, theo di ngôn của giáo sư Liệu trong cuộc họp báo tháng 2/2005 tại Hà Nội). Dối lừa hình tượng. Đánh tráo ký ức. Hoán vị tuổi thơ. Không nhân văn.
Thằng bé trong “Khúc Huyền ca” vô tư lự đang cùng cô bạn gái “chui vào ruộng mía” và… trốn trong bức tranh của Trần Anh Thái nguyên một Khúc II:
Bật sáng
Chùm hoa mở cánh
Giấc mơ mỏng mảnh
Biển bình yên lời ca,
Con thuyền nhỏ trôi mờ
Giấu lời ca vào sóng
Hoa Xuyến Chi chập chờn
Gối đầu lên giấc ngủ
Cơn khát bay về những chân trời.
Công tắc năng lượng mặt trời bật lên: Cảnh một biển êm đềm trong bình minh như một “chùm hoa mở cánh” với một con thuyền nhỏ chở “giấc mơ mỏng mảnh” trôi xa trong tiếng hát hòa tiếng sóng xuất hiện. Thằng bé ngủ ngon bên cánh hoa Xuyến Chi với khát vọng về một phía chân trời.
Trong tiếng sóng thầm thì
Hiện giấc mơ ngày xa,
Tôi băng qua cánh đồng vượt biển Đồng Châu tới cồn cát nhỏ
Em đứng đợi từ chiều,
Chiếc hộp giấy đựng bầu trời
Vỏ sò và ốc biển,
Cánh diều con tàu khát gió
Ánh nhìn và dòng máu không ngừng chảy.
… Trong ánh mắt kín đáo mơ màng
Trong gương mặt buồn xa xăm
Đôi môi hứng khởi thẹn thùng
Sẽ cùng tôi yên tĩnh dưới mặt trời dịu nắng.
Người họa sĩ vẽ thêm một nhân vật có cùng giấc mơ chung, đẹp như huyền thoại: Cô bé trên tay là chiếc hộp đựng bầu trời với những trò chơi tuổi thơ: Vỏ sò, ốc biển. Thằng bé trong tay cánh diều làm con tàu, chuẩn bị phóng lên vũ trụ. Một ngày hạnh phúc sẽ đến: Cô bé hấp dẫn, thơ ngây cùng thằng bé đón ánh “mặt trời dịu nắng”.
Nửa bức tranh với tuổi thơ trong vòng tay mẹ và nửa bức kia là tình yêu trong sáng trong khát vọng tương lai. Hai nửa bức tranh này đã nhập lại thành một bức tranh hồn nhiên đầy khát vọng hạnh phúc của tuổi mới lớn. Bức tranh hồn nhiên trong chiến tranh mà không trường ca nào vẽ được. Nó độc đáo là thế!
Nhưng hạnh phúc ngừng trôi theo chiến tranh. Bức tranh khác lại được Trần Anh Thái vẽ theo chiều tương phản khác độc đáo hơn: Bức tranh chiến tranh.
4. Tái tạo một bức tranh lớn trong chiến tranh:
a. Bức tranh gia đình ngày chia tay: Trong 21 câu thơ dài ngắn khác nhau, họa sĩ chiến trường Trần Anh Thái vẽ 4 cảnh khác nhau cùng một chủ đề: Chia tay
Bức thứ nhất:
Tôi trượt ngã
Chị quăng vội chiếc xe giữa đường sợ hãi thét lên
Giọng chị lạc chiều
Tôi phủi bụi đứng lên cười nhem nhuốc.
Cảnh em trượt té, cười nhem nhuốc đối lập gương mặt hốc hác của người chị đầy sợ hãi và đẩm đầy nước mắt chiến tranh. Bầu trời bên kia vào đêm chấm phá vài ngôi sao mập mờ. Bầu trời hoàng hôn tạo thành nét tương phản. Một bức tranh “Chị em như thể tay chân. Ra đường, em ngã, chị nâng lên cùng” đầy nét đẹp của tình tỷ – đệ không trường ca nào chấm phá nên nó độc đáo!
Bức thứ hai:
Mẹ thức lúc nửa đêm
Cơm tàn tro nguội
Anh tôi biền biệt chiến trường
Bầy chim thản nhiên bay qua.
Hình ảnh người mẹ ngồi nửa đêm khuya trong khi đó, nồi cơm nguội còn để trên bếp với đóng tro tàn. Hình ảnh này sẽ đối lập với nửa đêm bên kia, một người lính lớn tuổi hơn thằng bé (anh tôi) đang cầm súng ngồi, đứng đâu đấy trên chiến hào. Bầu trời có một bầy chim bay qua thản nhiên.
Bầy chim là biểu tượng của tự do. Người lính mơ gì, ước gì mà không mơ ước được tự do như con chim bay trên bầu trời? Giữa cảnh ruời ruợi của mẹ đêm khuya và cảnh thằng con tay cầm súng đang ngước nhìn con chim trên bầu trời. “Ta đã thấy gì trong đêm nay” của Trịnh Công Sơn hát lên đồng điệu. Một bức tranh chia lìa giữa mẹ và con nhưng lại là ước mơ trở về. Nó độc đáo!
Bức thứ ba:
Biển rầm rì
Hương khói ban thờ đỏ mắt
Trăng rằm côi cút sáng ngoài sân.
Không cuối không đầu
Giấc mơ mờ sáng
Một bàn thờ đầy khói hương cay mắt đỏ (vì khói hương, vì khóc). Đối lập với hình ảnh này là trên trời trăng rằm tròn sáng trên trời. Vì trăng tròn quá, sáng quá (nên thấy rõ thằng cuội ngồi rũ dưới gốc đa) mà so với bầu trời, nó lộ ra bé nhỏ, lọt thỏm giữa không gian nhưng rực sáng trong lòng người con mất cha (thằng bé vẫn giữ được nét vô tư vì tình cảm mẹ, chị dành cho trọn vẹn nên vầng trăng không cha vẫn tròn sáng đầy tình mẹ, chị). Riêng đối với người vợ mất chồng thì “soi gương nhớ thuở tròn trăng, soi lòng mới thấy bóng hằng cút côi” thì ánh sáng nào mà không trở thành “sáng côi cút“! Một bức tranh tương phản hoàn toàn tĩnh. Một bức tranh cô nhi góa phụ có tang thương nhưng vẫn sáng như vầng trăng chưa khuyết! Nó độc đáo là thế!
Bức tranh thứ tư:
Khi tôi hát gió trong nhà thắt ngạt
Lúc vui cười nước mắt mẹ nghẹn đêm
Và tôi ngủ mẹ ôm đêm thức
Sáng sáng tôi ra khỏi nhà mẹ run rẩy quay đi.
Hình ảnh một cậu bé con cười vui và ngủ ngon đối lập với hình ảnh người mẹ lau nước mắt và ôm đêm… ngủ! Tức là thức trắng. Hình ảnh cậu bé đi vào chiến trường bước ra khỏi nhà đối lập hình ảnh người mẹ quay đi run rẫy. Một bức tranh ngày chia tay giữa hai mẹ con lòng đau thắt mà mắt ráo hoảnh, ngoảnh mặt đi mà khóc trong lòng! Bức tranh chia tay cao cả, “mẹ thà coi như chiếc lá bay” của “Tống biệt hành” với sự hy sinh lớn lao quá chính là đây. Chấp nhận cho đứa con trai còn sót lại, lên đường hiên ngang ra sa trường. Độc đáo!
b. Bức tranh người lính: Chia tay em. Chia tay… lòng.
Bức tranh thứ nhất: Không có buổi chia tay nào buồn nhất bằng buổi chia tay người yêu. Những bức tranh chia tay đẹp đẽ, hấp dẫn mùi hương tiễn biệt trong “Hương thầm”, hay bức tranh “chói ngời sắc đỏ” trong “Cuộc chia ly màu đỏ” đầy háo hức xung trận thì “Khúc Huyền ca” diễn ra cuộc chia tay thật lặng lẽ, đầy mưa gió:
Anh dìu em trên đường mưa đổ
Em hãy vịn lên vai anh mà bước
Sắp tới nhà
Tia chớp nhói lên cùng tận.
Nhưng ở cuối ngôi làng
Ánh sáng hắt ra ấm áp.
Can đảm em ơi
Và đừng phiền muộn
Mẹ vẫn chờ em mong ngóng đêm dài.
Một cảnh mưa đổ. Bầu trời sấm chớp. Em vịn vào vai anh trở về căn nhà có mẹ đang chờ phát ra tia sáng tình mẹ ấm áp. Bức tranh chia tay trong mưa. Không một lãng mạn của kiểu “Chia tay tình đầu” của Nguyễn Ngọc Thiện hay “Chia tay hoàng hôn” của Thuận Yến. Nó đơn giản là cảnh chia tay trong mưa với ánh đèn đêm với sự im lặng và niềm hy vọng đoàn tụ.
– Bức tranh thứ hai: Đến lượt chàng tân binh trở về chính mình:
Xin từ biệt
Chuông nhà thờ đã điểm
Anh phải đi trước khi trời sáng
Để không ai biết anh khuỵu ngã
Cái khoảng trống này
Cỏ sẽ xanh
Và bụi mỗi ngày che phủ!…
Hình ảnh người con trai đầy dũng khí làm mặt vui khi chia tay mẹ, làm mặt can đảm khi chia tay em. Xong bổn phận, chàng trai này lại y hệt chàng lính trong “Tống biệt hành” một mình một bóng thì mình trở về với mình (tiếc rằng không có người yêu) trong đoạn thực nhất của bài thơ đã được Hoài Thanh… ngứa mắt, cắt bỏ:
Hơi thu đầu núi giá lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Buồn ở lưng trời nghe đã lại,
Tiếng đời ru động tiếng hờn câm.
Đối diện với nỗi lòng của mình cũng là một tính cách cứng cáp cần có. Một hình ảnh người ra đi trong đêm. Một khoảng trống ngày mai sẽ là “màu xanh của cỏ”. Con đường lắm bụi lấp dấu chân xưa. Một bức tranh tương lai không chừng! Chuẩn bị tâm lý cho gia đình, cho người yêu xong thì cũng nên chuẩn bị cho mình. Trọn vẹn đôi bên. Bức tranh hài hòa tình riêng – tình chung, độc đáo.
– Bức tranh thứ ba: Không ai đi chiến đấu lẻ loi. Khi “Đường tới thành phố”, “Trường ca sư đoàn”, “Mặt đường khát vọng”, “Những người tới biển”… đều hừng hực không khí của “Lên đàng” của Lưu Hữu Phước hay “Tiến quân ca” của Văn Cao ào ào như thác đổ “chẳng kè thù nào ngăn nổi bước ta đi” thì những người lính trong “Khúc Huyền ca” lặng lẽ làm tròn bổn phận của mình, đầu đội đại bác, tai nghe súng hát, đói khát chẳng hề than:
Hút trong cánh rừng, bóng họ mờ sâu,
Đại bác rít qua bầu trời lửa, những chùm mây ám khói đạn bom.
Họ đi, cái chết lửng lơ, thác lũ gào sôi cơn sốt giật, bát cơm sượng sống gấp ngày. Ai nhìn ai? Con đường kiệt sức, chân bước mắt bầm, bình minh chết trong chùm mây bạc.
Một cánh rừng âm u. Một bầu trời ám khói lửa đạn bom. Một âm thanh toàn đại bác rú. Một “đoàn quân lặng im, đi về biên giới” của Trần Tiến hiện ra. Những hóa thân từ đoàn “quân xanh màu lá” trong “Tây tiến” của Quang Dũng leo đèo, vượt thác, đói khát nên không còn “dữ oai hùm“. Một bức tranh hiện thực của người lính ở rừng. Không lên gân. Không hô khẩu hiệu. Bức tranh núi rừng, cái thật nhiều hơn cái ảo nhưng gian lao không nhụt chí. Đó chính là nét thật của một người lính chân chính!
Chỉ một đoạn IV, Trần Anh Thái cho ta tới 7 bức tranh không giống nhau về đại ý nhưng cùng một chủ đề (chiến tranh), cùng tư tưởng (nhân văn), cùng bút pháp (tương phản và phá vỡ cấu trúc ngữ pháp). 7 bức tranh trong cùng một gia đình chẳng còn con nối dòng này với hiện thực tiễn đưa người ra trận diễn ra trong sự đau đớn, nghẹn ngào và im lặng. Im lặng là vàng trong lúc này vô giá trị. Không ai cần vàng trong lúc vàng chẳng mua được mạng sống lúc này. Im lặng trong chia tay là tiếng khóc không lời. Vết đau trong tim và dòng chảy nghẹn ngào của tâm hồn sẽ sâu sắc và hiện thực hơn. Phản ánh đúng hiện thực, đó là cách viết nghiêm túc và lương tâm của người cầm bút chân chính. 7 bức tranh riêng biệt này tương phản đớn đau và hy vọng tràn trề không một trường ca nào vẽ cùng một lúc. Chúng độc đáo là thế!
5. Tái tạo một bức tranh chiến tranh trong mắt ai: Trong mắt tất cả những người ra trận.
Quang Dũng từng ngậm ngùi trong “Tây tiến“:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Trần Anh Thái vẽ nó trong đớn đau:
– Bức thứ nhất: Hai bên, người chết trong tư thế bình đẵng như nhau:
Bạn tôi chết
Mũi súng dựng bầu trời xanh thẳm
Máu ròng ròng sẫm mặt trời trưa
Đất đồi phơi xác bạn xác thù
Tiếng chim dại lửng lơ sườn núi.
…Cái chết
Bom vùi lấp mặt
Mặt trời lấp mặt
Xác quân thù xác bạn gục vào nhau.
Một hình ảnh: Súng chĩa mũi trên bầu trời (Có hai cách hiểu:Thứ nhất: Bắn ai nếu không bắn lão… trời già? Thứ hai: Không muốn nhắm vào ai cả?). Bầu trời màu xanh hy vọng và tang tóc trùm lên nhau. Bầu trời trưa bị mưa máu che mù. Mặt đất đầy xác bạn, xác thù gục vào nhau. Hình ảnh con chim đứng hót thảng thốt giữa sườn núi khi sẽ có những con Kênh Kênh chuẩn bị lăn xả vào tấm thân người đổ xuống. Một bức tranh chết chóc thê lương, chạnh lòng người ngoài cuộc! Người ta sẽ nghĩ gì rồi có một ngày lập lại những ngày thê lương ấy? Ai sẽ đào hầm cho ai ẩn nấp? Ai sẽ là người chịu nằm xuống “tự nguyện” chết cho quê hương? Những cái chết “thân thiện” như thế này chưa từng thấy đạo diễn nào dàn dựng, văn học nào tái hiện bao giờ, nó độc đáo!
– Bức thứ hai: Những nấm mồ rồi sẽ bị bỏ hoang là hiện thực hôm nay:
Mộ bạn đắp vội ngày
Hàng cây câm lặng
Trời Nghĩa Hành mây trôi rưng rưng.
Xác người cuốn trong vòng tang xám
Xếp hàng
Khói bay ngơ ngác.
… Mồ đắp vội ngàn ngàn mưa nắng
Xoá đi tên đất tên người.
Nhập nhoạng người
Nhập nhoạng trắng
Những thân hình bó trắng
Xác chết chồng xác chết đợi ngày…
Hình ảnh những xác chết được lấp vội vàng. Những ngôi mồ đắp cũng vội vàng. Không hòm. Không thân nhân. Xác chồng lên nhau đợi ngày… may mắn có ai nhặt nấm xương tàn!
Một bức tranh chuẩn xác bất di, bất dịch của cánh rừng chôn xác. Nó vô danh…
Trong mắt Nguyễn Hữu Quý, cái chết đắng cay xuất hiện:
Chết không còn tuổi đã đành
Cái tên mẹ đặt cũng thành khói mây
Biết hồn xanh cỏ, xanh cây
Vô danh vẫn cứ đắng cay lòng mình!
Tổ quốc ghi công cũng không ghi hết tên người! Hai chiến tuyến, hai sắc áo quân trường; một dân tộc, một kiếp người, một lần hy sinh không còn gì, còn lại gì ngoài nấm mồ hoang! “Khúc Huyền ca” tái dựng bức tranh hiện thực đau thương này cũng như Nguyễn Du vẽ bức tranh “Sở kiến hành” dâng lên… nhà vua rõ!
Mỗi chúng ta sống trong thời hòa bình, có ai muốn bom đạn một lần nữa đào huyện chôn người? Chiến bào thay áo, bom mìn thay cơm! Bức tranh đơn giản này mà tàng chứa bao nhiêu khát vọng hòa bình trong ấy. Chiến tranh lạnh lùng. Chính sách sai sót. Thấy thiếu sót thì bổ sung, thấy sai lầm thì chỉ rõ. “Người thánh thiện biết lắng nghe, đức nhân hiểu được tiếng ve ngậm ngùi”! Bán rẻ danh dự đất nước để mưu cầu lợi danh là hành động phản bội giống nòi. Làm người ai làm thế! Bức tranh mồ vô chủ của Trần Anh Thái chẳng phải là bức tranh bán rẻ cuộc chiến tương tàn mà trái lại, nó có một giá trị đánh thức những người đang muốn chiến tranh thế giới thứ 3 hãy dừng lại. Nó độc đáo!
III. Tái tạo tính cách nhân vật trong chiến tranh:
Tái tạo một bức tranh chiến tranh thê lương, tàn khốc nhưng con người trong cuộc không phải là những con người buông xuôi, hèn nhát. Thể hiện được tính cách dũng cảm này, Trần Anh Thái phải có một trái tim của trí tuệ. Không trong sáng trong cách nhìn, chẳng hòa lòng trong cách nghĩ, thiếu trăn trở với thời cuộc và trơ với nỗi đau thì khó tái tạo được những mẫu người mà văn học hình như đã “đông đá” với chừng ấy quan điểm về người anh hùng, cứng ngắt với từng chiến công, ngoa dụ từng chiến tích và phóng đại lòng thù hận.
Trở lại từng khúc một, ta thấy:
1. Người mẹ: Có 4 người mẹ: Mẹ của anh lính trong khúc I, IV và nhân vật má Mừng trong khúc VII, và người mẹ trẻ là cô bé ngày xưa:
a. Người mẹ của chàng lính trẻ:
Một người mẹ hết sức đảm đang, nhân hậu: Nuôi con no ấm bằng sự “nâng niu chăm chút” trong thời kỳ đói nghèo mà vẫn giữ cho con được một tâm hồn trong trắng không sớm nhuộm máu thù hận trước tuổi để nó có những ước mơ êm đẹp cùng bạn bè “cất giấu thế giới của mình”.
Một người mẹ dũng cảm, chịu thiệt thòi khi hy sinh hạnh phúc lứa đôi: Đã có chồng vào chiến trận và hy sinh qua “hương khói ban thờ đỏ mắt, trăng rằm côi cút sáng ngoài sân” và người con trai lớn còn chưa biết sống chết ra sao nơi “chiến trường biền biệt“.
Một người mẹ vô cùng can đảm, biết nghĩ cho đại cuộc khi không tìm cách giữ con ở lại (ta loại bỏ cách hiểu Bộ quốc phòng lúc ấy ra chỉ thị cho toàn bộ thanh niên 18 tuổi phải nhập ngũ. Ai trốn được trong luật nước này?). Người mẹ chấp nhận cho người trai cuối cùng, còn nhỏ tuổi đi vào chiến trường và chỉ một cử chỉ “run rẩy quay đi” khi đứa con lên đường. Nhân cách cứng cáp ấy đáng trân trọng biết chừng nào!
b. Má Mừng:
Một bà má anh hùng có sức chịu đựng mất mát tâm lý quá lớn với 6 liệt sĩ “Gương mặt chồng và năm đứa con. Tàn nhang rơi lạnh” giờ cô đơn nhưng không hề oán trách.
Một người má phi thường tìm kiếm niềm tin thay thế một sự thật đau xé lòng bằng cách “mở đài thật to. Nhớ một tiếng cười một giọng nói”.
Một bà má có công cách mạng âm thầm:
Chiếc lán cứu thương năm chiến tranh
Giờ mọc vài cụm cỏ dại
Trống hai bàn tay trống ánh nhìn.
Thì ra từ năm chiến tranh, mà Mừng cũng từng làm người cứu thương nhưng khi chiến tranh qua, mất mát đến thì không có ai “cứu khổ” cho mình!
Một bà má anh hùng vẫn sống với tháng ngày lao động “Má bới ngày. Hạt rơi héo đất” mà không tiếng thở than, chẳng lời oán hận. Một nhân cách cao cả đáng kính phục biết bao nhiêu!
c. Người mẹ trẻ: Trần Anh Thái tái tạo nhân vật cô bé này có ba chiều thời gian:
– Thời tuổi thơ, nhân vật này là một cô bé thơ ngây luôn cất giữ chiếc hộp đựng mặt trời trong khúc I:
Bạn gái hồn nhiên túm áo kéo vào vườn khuya hái trộm dưa hồng. Tôi ăn no nê tiếng cười trong sáng, huýt sáo lời ca chỉ thuộc nửa chừng.
Gương mặt em ngời ngợi niềm mê thích.
Chúng tôi cất dấu thế giới của mình thẳm sâu ký ức
Chúng tôi đi qua nỗi đau, nỗi buồn tan biến.
Chúng tôi là cổ xưa hoang hoá bóng người ánh sáng tràn trề mặt đất.
Em có những tháng ngày hạnh phúc với tuổi thơ trong nguyên khúc II:
Cầm tay em băng qua những ngọn đồi vực sâu gai bụi
Cánh rừng mù rối
Ngôi đền thiêng cao vút trên xa kia
Những chùm mây vây bọc.
– Thời tuổi lớn: Em cũng có khoảng thời gian hiếm hoi để chia tay như những cuộc chia tay khác trong chiến tranh trong khúc IV:
Lời từ biệt cuối cùng
Trăng đã lặn
Em thả tóc mơ hồ
Hương bay xao động
Mùa thu ngời mắt em.
Tình yêu của em đã hòa lẫn vào đất trời thành một tình yêu cao cả thiêng liêng:
Gió vung phí ngọn dừa cha em trồng năm trước
Nơi chúng ta lén nhẹ bước chân
Vượt qua khỏi hàng dừa là biển cả
Sóng âm thầm gục lên bờ cát.
Chúng ta khắc bóng mình in trên mặt biển này.
Bài ca chúng ta biển ghi vào trong sóng.
– Thời làm mẹ: Em trở thành người mẹ trong khúc VIII và cuộc đời em đã không còn có những tháng ngày êm ả mà là chùi vào những tháng ngày bao cấp sau chiến tranh, em là người mẹ chật vật với cuộc sống Hà Nội thời khốn khó nhưng vẫn giữ được cho mình cuộc sống hiền lương:
Không thạo bán buôn
Không biết kiếm tiền
Lương tháng vợ chồng tối nào cũng kiểm
Đồ đạc trống trơn
Em bụng chửa xanh xao chín tháng mười ngày.
Hà Nội đông người con cá mớ rau
Cơ quan trốn giờ về lo xếp hàng
Âu mỡ để dành vô tình làm đổ
Cả tháng nhịn ăn năm sau còn tiếc.
Trong hoàn cảnh thiếu trước hụt sau, em trở thành người mẹ như bao người mẹ khác và lấy tiếng cười con trẻ làm niềm tin:
Mùa hạ nhôn nhao
Nhôn nhao gương mặt.
Đêm bừng sáng nụ cười con trẻ
Căn phòng giấu một ban mai hé sáng ngày ngày.
Cuộc sống chỉ với tiếng cười con trẻ thôi, không đủ khi đồng tiền bắt đầu chi phối mọi thứ và thao túng lương tâm con người trong mọi thời đại; người mẹ trẻ như em đã thay đổi hướng đi. Nhân vật này đã tiến thêm một bước trong khúc IX:
– Thời ve lột xác: Người mẹ trẻ này từ trong số phận nghiệt ngã:
Em cúi mặt bước đi
Dấu chân mòn cũ
Vô định con đường rêu.
Đôi khi trật đường sợi dây xiết giật
Em vấp ngã lả người
Nước mắt ròng gương mặt xinh.
Rừng mỗi ngày cạn kiệt
Cơn đói âm u trên mái nhà tranh.
Em trở thành một người biết suy tính cho tương lai:
Không thể quay về con đường dẫn vào ngôi nhà cũ
Những cột kèo đã nong
Nóc nhà dột nát
Những cơn điên và những tiếng vỡ
Vết sẹo cũ tái đau rỉ máu mặt hiền.
Suy tính xong là quyết không buông xuôi số phận:
Bàn tay không
Đêm khuỵu ngã
Em chống tay trên đất vụt đứng lên.
Người mẹ này mơ tới một cuộc sống khác tốt đẹp hơn:
Bầu trời lạ
Em tắm trong ánh nắng muôn màu
Giấc mơ dốc kiệt
Chông chênh con đường
Em ủ ban mai vào đêm vắng.
Có ánh sáng hắt xa tít tắp
Đàn chim di cư tự do mở những phương trời.
Người mẹ này đã nhập vào cuộc sống thác loạn thời hậu chiến với:
Nhịp điệu Rock mạnh
Ánh đèn quay cuồng không phanh không số
Thành phố cao lên trống lạnh lớn dần
Những bàn chân lấm bùn bước vội trên tấm thảm đỏ
Sáng tối mập mờ.
Lại đêm nữa em không về
Căn nhà bỏ trống.
Khác với nhân vật trong tự truyện của Nguyễn Hồng Công có bố ruột là liệt sĩ, bố dượng là thương binh, bản thân cô là người bệnh thận ở giai đoạn cuối nhưng tha thiết với một “Khát vọng sống để yêu” rõ ràng. Khác cả nhân vật Huyền trong phim “Bẫy tình” (từ tiểu thuyết “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng) trược đà trên thí nghiệm muốn kiếm tiền dễ thì chỉ còn cách làm đĩ. Nhân vật “Em” của “Khúc Huyền ca” đã chìm vào thế giới ban đêm, không dấu vết rõ ràng (“Em” đi làm đĩ hay chỉ đi hát, nhảy tại phòng trà hay chỉ làm gái bán bar không nhất thiết phải bán dâm) nhưng để lại trong lòng người lính thời hậu chiến một niềm tin có một ngày mai mở sáng là em sẽ quay về.
Ý thức đấu tranh với bản thân dù là tiến tới con đường không sáng sủa nhưng nhân vật này thay thế những nhân vật bà mẹ anh hùng, có công cách mạng cam chịu thiệt thòi, bằng lòng với cuộc sống cô đơn trong thời chiến. Người mẹ trẻ này đã vùng lên bằng sức lao động chính mình, thách thức cả một xã hội đang quay tròn với cái nghề đến nay trở thành một trong “quốc nạn”!. Giá trị của nhân vật “Em” này được Trần Anh Thái đánh giá rất cao dù em đi làm cái nghề không thiện chung, không tương xứng với nhân cách thiên thần của em từ trong thời chiến tranh nhưng đó là con đường duy nhất trong lúc bấy giờ để em nuôi con. Lương hai vợ chồng tối nào cũng kiểm, vật giá đắt đỏ, cuộc sống mắc mỏ đẩy em vào chốn phong trần. Cái nghề không quan trọng, cung cách làm người thế nào mới là quan trọng. Làm người cũng lắm loại người. Mượn nghề thiện để làm điều ác, mượn tiếng tốt để giấu chuyện gian, mượn tro tàn để phủ mờ lịch sử, mượn thế sự để che chắn lầm than, mượn nén nhang để nấu thân lười biếng, mượn chuyện lời lỗ để trám chỗ thế thời! Quỷ quyệt thế! Nghề nào em phải chọn? Vậy là lâm vào “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan!
Động cơ đẩy nhân vật vừa tự sự, vừa trữ tình này lên đến đỉnh điểm. Bỏ trống hoắc một lỗ hổng tương lai! Không có trường ca nào khắc họa nhân vật ba chiều thời gian như vậy. Nó độc đáo là thế!
2. Tính cách nhân vật người chị:
Nhân vật người chị trong trường ca “Đường tới thành phố” được Hữu Thỉnh khắc họa tính chịu khó nuôi chồng dài dằng dặc trong “năm năm trời”, chị “nuôi anh dưới lòng đất” và tác giả cho chị những tính cách:
Chị góa bụa trong hồ sơ tự khai
Chị cười cợt với thằng chỉ điểm
Chị cố làm cho thật lẳng lơ
Thắt vạt áo trước bao lời dị nghị
và chị bị bên chồng bỏ quên…
“Khúc Huyền ca” không lắm tính cách mà tảc giả ban cho, người chị trong trường ca này đơn giản nhưng thật khác người:
Khi thấy em ngã, “Chị quăng vội chiếc xe giữa đường sợ hãi thét lên. Giọng chị lạc chiều”. Bấy nhiêu đó, ta có thể hiểu người chị này thương em hơn bản thân, hơn của cải với động từ “quăng” chiếc xe. Thử nghĩ, thời chiến, thời bao cấp, một chiếc xe đạp là cả một gia tài thì mới hiểu được chi tiết rất nhỏ này trong tác phẩm nhưng nó có giá trị lớn lao để tô điểm tính cách tốt đẹp của nhân vật.
Người chị trong “Khúc Huyền ca” chẳng may mắn như người phụ nữ trong “Trường ca biển” của Hữu Thỉnh “Những đứa con sinh ra trong chiến tranh. Sống tản mát dưới những hầm trú ẩn. Chị để con mỗi đứa ở riêng hầm. Bom có trúng cũng không thành tay trắng. Những đứa con nhớ anh qua rừng giờ nhớ anh qua biển”. Người phụ nữ cất giấu những đứa con như của cải để ‘không thành tay trắng’ một cách có tính toán khôn ngoan. Người phụ nữ này còn cơ hội hạnh phúc. Ngược lại, người chị trong “Khúc Huyền ca” có hay không có chồng, tác giả không hề nhắc tới. Ta chỉ thấy đoạn 3 câu trong khúc IV:
Vì sao nước mắt chị tôi rơi
Chiến tranh hốc hác mặt người
Những vì sao mập mờ sáng tối.
Chị có chồng hay không, chiến tranh cũng là nguyên nhân cho người ta khóc, người ta đói vật chất, khát tình thương. Tính cách thương em, tương đồng cảnh khổ chiến tranh trong người chị được Trần Anh Thái đẩy lên một bậc trong khúc VII trở thành người phụ nữ có chồng ra trận:
Đêm mơ
Người lính Bắc năm xưa chập chờn xanh rớt
Chị bóc hộp đường phèn
Cổ khô nấc nghẹn
Anh vẫy tay bước đi
Rất xa …
Rất xa…
Xa mãi…
Đêm đêm
Giấc ngủ ru về ký ức
Nghĩa trang bên bờ sông Vệ
trắng chùm hoa dại nở quên.
Đoạn này đã làm sáng tỏ được cái câu đau lòng của người em “vì sao nước mắt chị tôi rơi” ở khúc I. Té ra, chị có chồng và anh đã “vẫy tay bước đi“ “rất xa… xa mãi…”. Tác giả không nói ngay lúc đầu. Đó cũng là một thủ pháp mới.
Chiến tranh đã biến chị thành góa phụ. Tính cách lặng lẽ, âm thầm chịu đựng nuôi con trong hoàn cảnh “hòa bình giấu mặt” của nhân vật người chị này đã được tác giả xây dựng rõ nét trong thời “tem phiếu nửa mùa“:
Chị giật mình
Gói mì tôm chuột tha đi mất
Tem phiếu nửa mùa
Bữa ăn chống đũa.
Con thơ đói sữa
Nắn túi quay đi
Khác với tính cách của người mẹ và má Mừng âm thầm chịu đựng trong cô đơn, người chị tiến lên một bước bằng sự nhận thức có giá trị phê phán:
Những năm ở rừng
Cơm nắm chia tư
Trong trời trong mắt.
Hoà bình lánh mặt
Nước mắt giấu đêm
Qua đường ngần ngại.
Một phản kháng yếu ớt bằng lời tự thán chỉ có tính chất so sánh bản chất thay đổi nhân sinh quan mau chóng của con người cầm súng qua hai giai đọan chiến tranh ở rừng và hòa bình ở thành phố.
So với các nhân vật phụ nữ trong các tác phẩm trường ca, tính cách nhân vật người chị đã có giá trị lịch sử cho đến bây giờ. Lời tự than này, chẳng nhân vật nào trong các trường ca thấy được mà lên tiếng. Vì sao? Thơ, truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết hiện đại trong chủ nghĩa hiện sinh tại Việt Nam “to mồm, lớn miệng” đã thay mặt đáp lại lời sông núi đó!
Nhưng nét tính cách đẹp nhất của chị sau tiếng thở dài, sau dòng nước mắt là sự sống còn của con thơ buộc chị đứng lên trong tháng ngày “mặt người gập đất”:
Ngày tháng loanh quanh ô đất mảnh vườn.
Đêm toan tính không đâu ngày trĩu nặng. Nước mắt chảy ròng trên má con thơ.
Chị mỗi ngày bước mỏi, bàn chân heo hắt cánh đồng.
Mặt người gập đất.
Sang khúc VIII, người chị này với những nét tính cách trên đã hòa mình vào cuộc sống bình thường nhưng Trần Anh Thái đã biến sự sống bình thường ấy thành sự sống thiêng liêng của con người khi hòa nhập vào vũ trụ:
Ánh sáng cuối ngày rười rượi màn sương
chị tôi lẫn vào trời vào đất.
Chỉ có khi người hóa thân “vào trời vào đất” thì mới thấy được cuộc sống vô vàn quý giá, mới thấy rõ chân lý “sự sống sinh sau cái chết già”. Chị đã quẳng quá khứ tang tóc để sống vì con thơ như chị từng quăng chiếc xe khi em trượt ngã. Tính cách nhân vật thống nhất hòa hợp chỉ có trong “Khúc Huyền ca“. Hai nhân vật người chị trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm cũng mới chỉ dừng lại ở hóa thân là “chiếc lá bay” đi theo người em đến cùng trời cuối đất chứ chưa nhập vào đất trời. Hình ảnh nhân vật người chị trong “Khúc Huyền ca” của Trần Anh Thái đã qua hóa thân mà thành hình tượng bất tử hiếm hoi trong văn học có tính Người. Nó độc đáo là thế!
3. Tính cánh nhân vật người lính trẻ: Có ba giai đoạn
a. Giai đoạn thơ ấu: (Như đã phân tích ở phần B. Nội dung)
Nhân vật này, ta thấy là một cậu bé thơ ngây, hiền lương, vô tư với trò chơi làm những chiếc thuyền, những con diều giấy gởi vào đấy những giấc mơ tuổi thơ trong khúc I:
Tôi hào phóng tung những con tàu cất giấu trong mơ
Bay mãi mãi về phía mặt trời bí ẩn.
Sự tò mò và trí tưởng tượng phong phú đã đánh thức tính cách mạnh mẽ của thằng bé trỗi dậy đi tìm hiểu rõ nguồn gốc tổ tiên ông bà với những câu hỏi không người đáp:
Ngôi mộ xưa
Con đường ký ức
Con đường nào tổ tiên tôi đi?
Những góp nhặt trên chặng đường lang thang khắp cánh đồng, thằng bé đã nhận thấy:
Tôi lang thang khắp cánh đồng tìm dấu chân tổ tiên
Mảnh đất im lìm tầng tầng máu đổ
Mảnh đất linh hồn ông cha
Đêm chợt vọng bốn chiều người lầm lũi úp mặt vào bờ ruộng.
Một ngàn năm ao tù
Một trăm năm ông cha dao, cuốc tìm đường
Gió hú tu tu miệng bình gốm cũ.
“Gia tài của mẹ” trong “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu. Một trăm năm đô hộ giặc Tây. Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Gia tài của mẹ để lại cho con. Gia tài của mẹ là nước Việt buồn… Gia tài của mẹ, ruộng đồng khô khan. Gia tài của mẹ nhà cháy từng hàng” của Trịnh Công Sơn chính là đây! Những người ra đi tìm lửa nhóm lên cũng chỉ còn tàn nguội. Bởi vậy mới có hình tượng:
Người mò mẫn tìm lửa ở nhà mình
Tàn tro đã nguội
Người ngồi thật lâu
Gây buồn thế kỷ.
Nhưng Trần Anh Thái đã khắc họa tính cách nhân vật này theo chiều thống nhất: Một đứa bé có ước mơ thanh cao sẽ có ý nghĩ trong sáng về đất nước của mình:
Trong vô biên sáng mới, tôi hát ngợi ca sáng tạo
Mặt đất nâng tôi qua nồng ấm bình minh vang tiếng gọi Người.
Nó sẽ mang tinh thần bất diệt này vào chiến tranh để tìm lại bình minh và tìm ra chân lý vang gọi tiếng Người viết hoa trân trọng.
b. Giai đoạn lớn hơn: Tới ngày nhập ngũ. Anh là con người mang chân dung nhà quê lương thiện đầy tình “Đồng chí” của Chính Hữu trong tư cách làm con và tự hào về tình thương của mẹ một cách trẻ thơ :
Tôi ra đi buổi sáng thiên thần da thịt vấy bùn trộn săn ngày tháng và trở về nơi ngong ngóng đợi chờ đêm đêm Người thao thức. Trong giấc ngủ, trên đôi môi và nụ cười không dứt sáng hồn nhiên kiêu hãnh tràn trề. Dòng máu Người rần rật chảy trong tôi qua những mùa màng
Anh cảm nhận được tâm trạng đớn đau của mẹ mới biết mẹ mình “thức lúc nửa đêm” mới hay mẹ chưa ăn cái gì “cơm tàn tro nguội” và biết mẹ đang trong nỗi buồn đáu đáu con tim “anh tôi biền biệt chiến trường“.
Tự mình chia sẻ cùng mẹ nỗi đau này trong đêm chia tay khúc IV:
Khi tôi hát gió trong nhà thắt ngạt
Lúc vui cười nước mắt mẹ nghẹn đêm
Tưởng như anh là người vô tư nhưng thật ra, người con hát cười cho mẹ yên lòng nhưng trong ruột anh cũng đau thắt khi biết mẹ khóc nghẹn đêm vì cha, vì anh, nay vì mình. Không thương mẹ, sao lại hiểu mẹ nhiều đến vậy? Tình nghĩa người con mất cha dồn hết qua cho người mẹ nên ngay cả trên chiến trường, anh lính trẻ vẫn mơ về mẹ, tưởng tượng mẹ trong một hoàn cảnh quá ư quạnh hiu trong khúc VI:
Mẹ ngồi chống cằm
Mưa suốt cả ngày.
Một ngày
Tàn tro nguội lạnh
Chiếc kiềng bếp chỏng chơ
Niêu cơm bỏ dở.
Chú mèo ốm nằm không động đậy
Nắng lạc ngoài thềm
Mẹ vẫn ngồi
Cỏ rêu len dày cửa bếp.
Một ngày
Đầu gối run run
Hai tay chống đất
Ban thờ nguội ngắt
Biền biệt khói hương.
Rồi một ngày
Tóc mẹ ngả màu
Gió lay những vì sao nhỏ dần
Thềm gạch cũ đăm đắm mỏi ngày.
Không có tình thương con vật sao có con mèo ốm trong mơ, chẳng nhớ cuộc sống dân gian sao nhớ chiếc kiềng chỏng chê, nguội lạnh?. Không quen với kiếp nghèo sao biết được thềm gạch cũ đăm đắm chờ mong người về? Chẳng phải là người có giấc mơ hiền lương thì sao có những vì sao, từng cơn gió, cỏ rêu bò vào ký ức và không phải là người con có hiếu sao lại đau cùng mẹ trước tình cảnh mẹ buồn đến chết bên bàn thờ không còn ai thắp cây nhang! Không thông cảm cho mẹ sao nghĩ tới tóc mẹ sẽ đổi màu. Thì ra, người mẹ này chưa già lắm lúc tiễn con vào chiến tranh. Mới thấy chiến tranh đúng là kẻ thù của xuân xanh.
Người lính trẻ ra đi mang theo tình thương của chị:
Tôi trượt ngã
Chị quăng vội chiếc xe giữa đường sợ hãi thét lên
Giọng chị lạc chiều
Tôi phủi bụi đứng lên cười nhem nhuốc.
Thằng nhỏ… biết điều. Nó thấy chị quá sợ hãi lạc giọng vì sợ em đau nên cười trấn an. Đó là một trong những tính cách hiền lương, biết mình, nghĩ cho người của nhân vật.
Người lính nhỏ ra đi mang theo thời thơ ấu và tình yêu vừa nhóm lên cháy bỏng những vì sao lung linh:
Can đảm em ơi
Và đừng phiền muộn
Mẹ vẫn chờ em mong ngóng đêm dài.
Lời động viên chân tình và người lính trẻ đã giữ lời vỗ về ấy cho tới hết bản trường ca cũng như thống nhất tính cách cho nhân vật chính.
Chiến tranh cướp đi tuổi thanh xuân của những người phụ nữ trong chiến tranh thì trường ca nào cũng thấp thoáng nhưng đúc kết cô động sự phát triển tính cách nhân vật như một thể loại tự sự thì chỉ có “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng“!
c. Giai đoạn chiến tranh:
Một người lính đã chuẩn bị tâm lý lên đường là những tiếng nấc nghẹn ngào, là hành trình khắc nghiệt sẽ tới và là sự hy sinh không báo trước:
Cái khoảng trống này
Cỏ sẽ xanh
Và bụi mỗi ngày che phủ!…
Tiếng ai nấc trong đêm. Mồ hôi tứa thấm vào sương ớn lạnh, những cành khô lạo sạo vỡ hỗn mang.
Hành trình gian khổ đã tới với đời lính như trong “Trường ca biển“, Hữu Thỉnh để cho nhân vật tự tâm sự “Tôi đã lớn để trở thành người lính. Thọc đôi tay vào chiếc túi của rừng. Chiến công đôi khi là tìm ra một thứ gì ăn được. Để có giấc ngủ yên mười lăm hai mươi phút. Chúng tôi đào hầm hì hục suốt đêm” nhưng hình như, người lính nói chung đã cùng hát trên gian khó này như có lúc đã cùng đồng đội nghe tiếng đại bác và “Chim trói cột gõ vang ngày chật hẹp, mặt đất căng ra cái chết đến gần. Đêm không gió oi nồng chúng tôi ngồi giã từ sự sống” trong “Khúc Huyền ca“:
Đi trong cơn khát
Đi trong mưa lầm
Vòm cây mất ngủ.
Cũng như những ngưòi lính sư đoàn 312 của Ngưyễn Đức Mậu trong “Trường ca sư đoàn”:
Không có mũ: đội trời
Không có giày: chân đất
Ba lô chưa kịp phát
Gói võng làm ba lô
Tính cách bộc phát lên cao khi chạm súng nơi chiến trường:
Dựng dậy vùng trời
Người đổ sấp
Mặt bạn tôi bê bết máu chiến hào.
… Người thứ hai
Ai thét lạc qua bầu trời ngút lửa
Người thứ ba
Không kịp một tiếng kêu
… Máu trộn đỏ cây rừng Quảng Ngãi
Những hàm răng nghiến chặt vào ngày
Đạn bay hỗn loạn.
Người giết người. Ta lại bắn vào ta là đây! Người lính đã cảm nhận ra sự thật của những cái chết chồng lên nhau buốt lòng:
Tôi nghe lạnh giữa hai bờ cuộc chiến
Cái chết nối hàng
Cái chết tiễn đưa nhau.
… Xác người cuốn trong vòng tang xám
Xếp hàng
Khói bay ngơ ngác.
Chẳng reo mừng trước chiến công. Không vỗ tay khi bắn trúng ngực thù. Chỉ im lặng một cảm nhận máu và người, cảm nhận sự sống và cái chết nháy mắt qua là “mặt đất xoá nhòa“!
Tính cách nhân vật chính đã lên đỉnh điểm giữa hai luồng sống và chết: “Chiến tranh không có con đường thứ ba”. Một ý thức xuất hiện:
Trận đánh kéo dài
Chúng tôi phải sống.
Nhân vật này đã sống đúng nghĩa theo tính cách này.
d. Giai đoạn sau chiến tranh:
Chiến tranh đi qua
Tôi nghe xa xôi
Tiếng hát êm
Bay mơ hồ trên sóng
Mơ hồ mắt em
Mơ hồ thả tóc.
Nghĩ về người con gái thời thơ ấu. Người lính đã trưởng thành. Tính cách nhân vật phát triển theo tuổi trưởng thành phải là một tình yêu với một tình yêu chứ không phải một trái tim “anh dành cho Đảng phần nhiều, phần cho thơ và phần để em yêu” 1/3 nhỏ như Tố Hữu. Cũng như Đặng Thùy Trâm theo tâm lý, rõ ràng vào chiến trường B là vì M là động lực thúc đẩy lớn nhất chứ không phải lý tưởng cộng sản chi phối hoàn toàn như người ngoài cuộc gán ghép. Không có tình yêu, ai dám hiên ngang xung phong đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ chuyện gì khi “tổ quốc” cần và ai chịu hiên ngang hứng viên đạn giữa ngực trên chiến trường? Không vì nhau, không muốn ở bên nhau chia lửa thì Bùi Minh Quốc không khóc người bạn đời đã hy sinh năm 1969 trong “Bài thơ hạnh phúc”: “Thôi em nằm lại với đất lành Duy Xuyên. Trên mồ em có mùa xuân ở mãi“!
Người lính trong “Khúc Huyền ca” may mắn không khóc người hy sinh nhưng lại đau với người còn mà như mất. Niềm đau đó mới đau hơn! Tính cách dành cho cô bạn gái ngày trước chiến tranh và sau khi tàn cuộc vẫn không thay đổi. Anh đã theo dõi từng bước chân sa hầm của cô và hy vọng một ngày nào đó người mẹ trẻ này quay về con đường mà ngày xưa “em ủ ban mai vào đêm vắng“ chờ một ngày:
Nước dòng sông tự chảy tràn trề
Tưới tắm cánh đồng màu mỡ phù sa.
Tính cách người lính từ hiện thực đã chuyển sang lãng mạn khi nghĩ về tương lai hạnh phúc khi có em cùng đi: Tha thứ lỗi lầm là điều thánh thiện nhất cho người lầm bước có cơ hội quay đầu nhạn: “Tôn em lên cùng tận cõi người“, mở rộng vòng tay, mở rộng tâm hồn “ta ngạt thở chờ bước chân em tới”:
Và em ơi mùa thu đẹp quá, mắt em trong sáng vòm trời. Ta thổn thức chờ em nơi cửa biển.
Đừng lần lữa trái tim ta muốn vỡ, mặt cát bồn chồn hoa sứ ngọt ngào thơm.
Một tính cách nam tử hán. Một trái tim của tình thương và tha thứ. Đừng nhầm lẫn với sự tha thứ kiểu làm ơn và ban phát. Những kẻ ban phát này chẳng hiểu gì về giá trị con người!
Cao hơn chút nữa, người lính này sau chiến tranh đã không quên những người lao động – những người lính chìm trong sản xuất không ra trận nhưng thắng hay bại một phần lớn nhờ họ, không quên bạn bè “Các bạn tôi ở đâu. Làng quê phố phường phương trời xa lạ? như người bạn Tà Ôi du kích năm xưa, không quên từng gốc cây, ngọn cỏ với những dấu chân của họ đã “Những dấu chân tản mát trên đường. Lối xưa lơ đãng”:
Mặt mày hốc hác
Nheo nhóc vợ con
Hai mắt mở tròn
Đất trời thườn thượt
Bán buôn lóng ngóng
Cơm bữa ăn đong
Ao vườn ruộng sản
Đóng khung giữa trời.
Đêm đã xuống ánh đèn hắt từ ngôi nhà vắng
Người tựa cửa nhìn sao toan tính mùa màng.
Họ trở về với nghiệp nông dân của họ như những người nghĩa sĩ Cần Giuộc năm nào hầu mong có những tháng ngày không chết chóc.
Tính cách người lính sau chiến tranh được hình thành tương đối thống nhất và bừng sáng trong khúc X (xin đọc phần B – Nội dung) khi vượt lên trên những lời rủa xả quân thù, hằn học bom đạn giặc để tìm những ngôi mộ mà lúc xưa đã từng bị lấp “Những gương mặt xa dần, tiếng đạn bom chìm khuất. Bia mộ viết vu vơ không tên đất tên người” như quan niệm người xưa “sống phải thấy cho được mặt. Chết phải thấy cho được xác” và “người sống có nhà, người chết có mồ”. Thời chiến, người ta đào hầm. Thời bình, người ta… đào mả! Thời mở nước, cha ông ta đào sông. Thời giữ nước, con cháu ta bán đất – mảnh đất thiêng liêng mà người con trong “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương đã van cha: “Cha ơi xin cha đừng bán đất rồi biết kiếm đâu ra giếng nước ngọt thế này”. Sự độ lượng là con đường trải thảm đỏ cho người ta tìm về chính lộ. Phong độ của kẻ chiến thắng không phải là reo hò trên xác chết quân thù hay trả thù lên những ngôi mồ của kẻ địch.
Tính cách người lính thời hậu chiến cao hơn khi cuối đầu trước nấm mộ kẻ thù:
Tôi thắp một nén hương
Tàn nhang quẩn một vòng tròn trống
Tính cách nhân bản này, phong độ anh hùng đây làm cho ta nhớ chuyện ngày xưa: Tào Tháo nhà Ngụy thời Tam Quốc bên Tàu đã thương tiếc không nguôi Quan Công (mắc mưu Tôn Quyền không hàng Tháo nên bị chém). Một Trần Quốc Tuấn – Hưng Đạo Đại Vương (có sách ghi là vua Trần Thái Tông) thời Trần từng cởi áo bào đắp lên thủ cấp giặc Nguyên Toa Đô với câu “Làm tướng thì hãy trung nghĩa như người này” và ra lệnh theo tước vương mà cải táng. Bởi vậy mà Nguyễn Trãi mở đầu Bình Ngô Đại Cáo viết “Nhân nghĩa chi cử điếu tại an dân”.
Chữ Nhân và chữ Đức đứng trước hay sau cũng như nhau vì có nhân mới đức cũng như chữ nhân nằm trong chữ đức từ lâu. Hai chữ này đã… được “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm xóa xổ: “Ta đi. Trong âm vang yêu nước. Ta đi với rựa và tên. Rựa ta mài vào gỗ thành nương. Tên ta gài xuống đất thành bẫy. Thằng Mỹ vào thì xác mà để đấy!. Thằng nguỵ vào thì xác nó đừng chôn!. Cho cháu con ta ,ai sau nữa, được nhìn!”!!?
Khi khắc họa được tính cách nhân vật lên tới đỉnh nhân bản phù hợp với truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, Trần Anh Thái đã mở đầu cho thể loại trường ca của mình một cái nhìn nhân bản về cuộc chiến, về người lính nói chung, về cuộc đời đáng trân trọng. Tính nhân bản chân chính cao cả là tính thời gian cho một tác phẩm với bất cứ đề tài nào nhất là đề tài chiến tranh.
Tính cách nhân vật người lính thời hậu chiến đã không dừng lại ở chương X. Hòa bình về không có nghĩa không đổ máu, không thương đau. Hòa bình về, con người xâu xé nhau về quyền lợi về những cái mà họ gọi là “tự do, dân chủ” như hái nụ tầm xuân! Vậy thì hạnh phúc không đường đến trên cái xấu, cái ác nẩy sinh “Máu vẫn rơi mặt đất tanh nồng dục vọng”.
Anh đi tìm hạnh phúc:
Con đường bắt đầu từ đâu?
Câu hỏi vang qua bao thế kỷ.
Hạnh phúc thật con người?
Mơ hồ đêm tối.
Anh loanh hoanh tìm về những ngôi nhà thờ cổ, những dấu chân tổ tiên, thánh đường, bật ngữa với sự “lừa dối”, bật nghiêng với “ích kỷ“, trợn mắt với “Gã hề lăng xăng sàn diễn u mê”, than thở:
Trên con đường kiếm tìm mải miết
Chông gai thăm thẳm
Bất tận dấu chân
Bất tận nẻo đường.
Cuối cùng đã tìm thấy một niềm tin khi có “em” một tình yêu như vừa được hóa kiếp:
Mơ hồ tiếng gọi, mơ hồ ban mai, ánh sáng lan tràn dậy mùi hương sớm.
Tất cả đang có mặt ở đây.
Tất cả sự sống này vang bài ca khát vọng.
… Những sinh linh bé bỏng yếu mềm dựng lên gương mặt trần gian.
Chúng ta bước lên kiêu hãnh.
Đừng rụt rè và đừng e ngại.
Lửa đang sáng lên ở phía chân trời.
Ngọn lửa này không biết còn cháy được bao lâu khi nguồn nhiên liệu đốt nó bằng tấm lòng sẽ cạn kiệt ngọn lửa này sẽ có một ngày tàn theo bóng mặt trời của mình? Một thi pháp mới cứu cánh vừa hiện hình. “Khúc Huyền ca” biến thành “Ngày đang mở sáng” trong vô tận thời gian!
IV. Thi pháp mới:
Đi tìm hình thức mới cho thơ không phải là việc “cần làm ngay” của người yêu thơ nên không nên vội vã. Tìm hình thức mới cũng không có nghĩa là “đả cựu nghinh tân” hay “hữu cựu bài tân“. Tìm hình thức mới mà nội dung cũ thì chẳng khác “bình mới” mà “rượu cũ”. Do đó, tìm hình thức mới chưa đủ, thơ phải chứa một nội dung căn bản mới dựa trên cái cũ. Thơ ca nương tựa cái cũ mà đi lên chứ không phải “có mới nới cũ”.
Ngàn năm nô lệ Tàu, Việt Nam hầu như bị Tàu đồng hóa trên mọi lĩnh vực nói chung và văn học nói riêng. Chữ Nôm thay thế chữ Hán. “Thơ mới” ra đời giữa thế kỷ XX với Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Nguyễn Bính… phá bỏ thi pháp Đường luật gò bó về hình thức, hạn chế về nội dung thống trị ngàn năm trời. Văn học coi như được cởi trói. Thi cử bằng chữ quốc ngữ do Pháp khai hóa kiểu lợi mình mà cũng thuận cho người, dễ dàng chấp nhận hơn nhưng chữ nghĩa vẫn dùng từ vay mượn Hán Việt và điển tích vẫn được sử dụng trong các truyện thơ. Tóm lại, những gì mang tính chất cưỡng ép, gò bó nói chung, không chóng thì chày cũng vỡ bờ khi tức nước!
Qua bao nhiêu đấu tranh trên chính trường văn học, bàn cờ nghệ thuật vị nhân sinh và nghệ thuật vị nghệ thuật của Hoài Thanh và Hai Triều đánh tới sạch sẽ tướng, chốt mà chẳng nhằm nhò chi. Người ta không biết kết hợp hai vị tướng nghệ thuật ấy lại. Cái nào cũng cần cả. Không có con người, tất không có nghệ thuật. Nghệ thuật không tiến triển theo bước tiến hoá con người theo học thuyết tiến hoá của Charles Darwin thì nghệ thuật chết già với bộ lông thời tiền sử!
Tiếp theo phong trào đổi mới thi ca, thơ theo từng nhóm xuất hiện như diều gặp gió và vấp bụi tre khi dứt dây: Nhóm “Thơ trường loạn” của ngũ tướng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn và Bích Khê. Nhóm “Sáng tạo” hiện giờ trừ Quách Thoại thì vẫn còn Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Trần Thanh Hiệp, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ. Nhóm Xuân Thu Nhã Tập với Đoàn Phú Tứ, Doãn Xuân Sanh, Nguyễn Xuân Khoát… Nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm của Trần Dần, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Phùng Quán, Hữu Loan, Văn Cao…
Tất cả các nhóm, đều đòi tự do sáng tác, chuyển đổi thể chế mới, tự do ra đời rồi… tự tan rã, nhóm bị cầm tù vì sự sai lầm của cơ chế thời bấy giờ. Thi pháp mới cũng uống nước sông mà sống thoi thóp đến ngày nay với nhóm “Mở miệng” của Bùi Chát, Lý Đợi, nhóm “Ngựa trời“ của Nguyệt Phạm, Thanh Xuân, Lynh Bacardi, Khương Hà, Phương Lan hay hàng loạt thơ theo thể thức nghênh ngang, lên đèo phóng đãng, xuống ngàn ngắm mây!! Giải thưởng đó đây được mùa hơn thóc gạo! Nhóm nào cũng được, sáng tạo hay tối tạo, mở miệng hay câm mồm, ngựa trời hay ngựa chứng không sao cả. Thức ăn đó mà, ai thích gì thì ăn nấy. Có người chê món mắm nêm thúi như xác chết sình nhưng người khoái lại nhìn nó mà… thèm cà pháo! Không ăn được thì để người khác ăn. Bỏ đi sợ tội mang về ăn thì sợ ói! Nhìn chung, hàng rao chẳng bằng ăn vào bụng, chờ đợi… tiêu chảy, cấp cứu nhà thương hay không rồi mới dám nói hàng có “hoá chất” hay không có? Văn học từ đó đến nay, chẳng có hàng mới (thi pháp) nào được công nhận cả dù bao nhiêu người tự chấp cánh cho nhau. Nhưng chim cánh cụt làm sao bay vượt qua bốn biển? Buồn không! Thơ nói mới mà không mới. Thơ có đích tới nhưng chưa có thi sĩ nào đủ sức vươn tới. Thành ra, tắt tị thi pháp.
1. Thi pháp: Dùng cho thơ, đơn giản như một thể thức, phương thức, cách thức làm gì thơ có thể để đạt hiệu quả cao nhất. Ví dụ như trong cách làm thơ, ta học thi pháp làm thơ Đường, thơ Lục bát, Song thất lục bát…, cách viết một bài thơ như thế nào cho có cả hồn lẫn xác? Ví dụ bài thơ lục bát dưới người đọc có thể đổi ngang, ngược hay rút bớt từng từ thì sẽ cho ra 4-5 bài thơ thể loại khác nữa:
BỐN MÙA THẾ SỰ
(đúng luật, đúng vận)
Thanh thanh sắc áo da trời
Bời bời hạt nắng hanh rơi tóc Người.
Xanh xanh bể cỏ non tươi
Quanh quanh én liệng, mây cười bóng hoa.
Chang chang nắng – lửa dung hòa
Khàn khàn tiếng khóc nàng Oa võ vàng.
Ào ào gió đẩy thời gian
Cao cao dáng phượng mơ màng tiếng tiêu.
Nao nao khói tỏa từng chiều
Ngà ngà lá nhuộm vàng hiu sắc màu.
Hiu hiu gió động bờ lau
Trong trong chiếc bóng chân cầu vấn vương.
Ròng ròng lệ tuyết can trường
Thầm thầm một khúc sâm thương cuối đời.
Râm râm bóng ngã trùng khơi
Thâm thâm thế sự tơi bời nắng mưa.
Nghĩa là không nói trực tiếp tên bốn mùa mà người đọc biết là bốn mùa đã tới. Không nói từ buồn mà người ta đọc là biết buồn, không nói vui mà người ta thấy vui… hay muốn tả bốn mùa thì không dùng xuân hạ thu đông mà chỉ lấy những tín hiệu bốn mùa để tả. Thi pháp Nguyễn Du trong Truyện Kiều là trường hợp điển hình.
Gần đây, thử nghiệm thi pháp thơ “Tân hình thức” của nhóm Khế Iêm và Trầm Phục Khắc với những giải thưởng nho nhỏ kích lệ mỗi tháng hai lần cho những tác giả được trúng giải theo thể lệ của ban tổ chức giải với mạng nối kết “tanhinhthuc.org”. Ta có thể thấy rõ một đoạn thơ Tân hình thức của Nguyễn Hữu Độ – người đạt “giải thơ Tân hình thức” như sau:
(NHỮNG) NGƯỜI ĐIÊN
Hắn thích chạy vòng vòng và
vừa chạy vừa quay vậy mà hắn không
chóng mặt thậm chí hắn còn
cười khoái chí hắn cứ chạy vòng vòng
ngày này qua ngày khác và
vừa chạy vừa quay lúc tỉnh cũng như
lúc say ban ngày cũng như
ban đêm hắn không ngủ người ta bảo
hắn điên và khăng khăng bảo
hắn điên hắn vẫn chạy vòng vòng và
vừa chạy vừa quay cho giống
sự chuyển động của cái hành tinh mà
hắn và loài người đang sống
Hình thức cũ: Vẫn là loại thơ cần có các khổ thơ. Nó cũng như một bài văn xuôi được ngắt câu thình lình, xuống dòng bất tử, chẳng chấp hành luật lệ an toàn giao thông là ra đường thiếu cái mũ bảo hiểm: Chất lượng. Nếu không xuống dòng thì nó là thể văn xuôi xe lửa như sau: “Hắn thích chạy vòng vòng và vừa chạy vừa quay vậy mà hắn không chóng mặt thậm chí hắn còn cười khoái chí hắn cứ chạy vòng vòng ngày này qua ngày khác và…”. Ối giời ơi! Cối xay gió! Chạy thế thì con vụ, con quay có bạn rồi!
Khác hình thức: Chú ý các từ có màu mà người viết làm dấu là thi pháp của Tân hình thức: Bài này làm theo thể 6/8 hẳn hoi. Câu đầu cứ 6 từ thì xuống dòng và ý câu trên thòng xuống câu dưới 8 từ và vần gieo như các dấu màu trên. Giá trị? Nội dung chẳng biết thằng hắn khốn khổ này đang giở cái trò mèo say tỉnh, điên khùng gì đây trong thế giới đang cần chất xám, cần tuổi trẻ tài cao chứ không cần tài đánh đố? Thôi, cứ kệ hắn, hắn chạy chóng mặt thì lăn đùng ra ngủ. Hắn không ăn thì hắn đúng là điên mà hắn ăn thì người ta… điên vì hắn. Khùng điên làm gì có tiền mua đồ ăn? Lại thế chứ?
Chữ nghĩa nhảy múa vòng vòng chóng mặt và câu cú ngữ pháp ném vào không gian say mòng mòng. Đúng như đầu đề “Những người điên” nhưng chỉ mới cho ra có một thằng điên chạy vòng vòng như vậy cũng đủ hết hồn mấy… Bác… sĩ!
Cái hấp dẫn duy nhất của thể “Tân hình thức” này là: Như một trò chơi game, vui mắt trẻ con, ăn đòn người lớn. Cái chẳng lợi cho văn học: Mãi lo câu cấu tứ từ câu trên thòng xuống câu dưới cho đúng luật nên ý tưởng khó mà đạt tới tầng sâu, cảm xúc khô khan, nhịp nhàng chẳng biết dùng triad (hợp âm) gì cho đúng? Cho học sinh học là… trúng gió hết cả lũ vì câu cú văn phạm đi tong! Cái khổ của thi pháp Đường luật vừa cởi ra thì tra cái khổ “Tân hình thức” này vào. Một cổ mà lắm tròng thế! Con kiến mà leo cành đa là đây!
Thở dài mà than bằng 4 câu “Tân hình thức“, nhức cái đầu, đau cái óc, xốc cái hông, “long cổ hội”:
Trời ơi tui mà hiểu được
chết liền có điên bắt chước điên chạy
vòng vòng như vậy tỉnh cũng
chẳng chơi cái kiểu khùng mà gọi hay.
“Khúc Huyền ca” làm theo thể tự do, chẳng luật lệ, thi pháp nào quy định và nó chẳng có cái gì cao sang, quý phái để gọi là “thi pháp nghệ thuật khúc chiết“, “cấu trúc phức điệu của âm nhạc giao hưởng”, hay “thi pháp động” mà Nguyễn Trọng Tạo dành trọn cho trường ca “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương. Nó chỉ đi từ thể thơ tự do, nhiều phân đoạn với bố cục tương đối mạch lạc, nhịp nhàng cần thiết đầy đủ. Diện mạo bản trường ca có mặt mũi “khôi ngô tuấn tú” hay không cũng nhờ vào cách trang điểm tự nhiên này để chuyển tải nội dung từ hiện thực chiến tranh mà tác giả từng sống qua. Nó sử dụng cũng các biện pháp tu từ, cũng xây dựng hình ảnh, bố trí tình tiết và nhất là, nó không đóng vai trò MC dẫn chương trình kiêm ca sĩ.
Can thiệp vào từng nhân vật hay từng vấn đề trong tác phẩm của mình, hầu hết những tác giả đều tham dự hội đồng thẩm vấn đơn phương độc mã này. Nghĩa là tác giả miêu tả những tốt xấu đâu đấy cả rồi cứ thế mà kết luận thay cho độc giả. Đó là phương pháp cũ của các thể loại văn chương. Trái với việc can thiệp “nội bộ” vào tác phẩm của mình, tác giả “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” chỉ đưa dữ liệu, miêu tả hiện thực, dẫn chứng bằng lời lẽ, ngôn ngữ, hành động… Chúng sẽ mang tên tác giả đó như khẳng định bản quyền của tác phẩm mà ta quen nhìn hàng chữ “Copyright” (bản quyền). Đó cũng là thi pháp mà người đọc tự đánh giá tốt xấu, có giá trị hay không? Quyền tự đánh giá nhân vật, đánh giá tác phẩm, đều thuộc về độc giả. Tác giả miêu tả dường như… rất lạnh lùng nhưng bên trong tàn ẩn một tình cảm bao la. Phương pháp sáng tác trên gọi là thi pháp cá nhân tỉnh mà động (lạnh ngoài mà ấm trong), cũ mà mới. Nó cũ vì đã có người từng sử dụng. Nó mới là người sử dụng không lặp lại cách viết của người trước dù trong cùng một chủ đề. Rõ ràng nhất là những gì thuộc sỡ hữu đại từ như “của tôi” đã được Trần Anh Thái đánh rơi mất.. của, chỉ còn “tôi’.
Đề tài cũ hay mới hiện nay trong văn học tưởng như ngựa đã buộc cương nhưng thật ra, cương kia không buộc được những con ngựa chứng! Nguyễn Đăng Điệp trong giáo trình đại học “Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy” (nxbgd-2006) với bài “Thơ Việt Nam sau 1975-Diện mạo và khuynh hướng phát triển” đã có cách nhìn nhận, đánh giá khi chia ra được 4 xu hướng phát triển của thi ca (chiến tranh, cái tôi, tượng trưng-siêu thực, hiện đại chủ nghĩa) và nhận xét về khuynh hướng thứ 4 này: “trong khi quá mải mê theo hướng hiện đại, một số cây bút rơi vào nhầm tưởng hết sức tai hại. Họ cứ ngỡ đổi mới thơ theo hướng hiện đại là phải dùng những từ ngữ tục tỉu, những cách nói đậm mùi sex hoặc dùng những kênh chữ… chứa thêm Anh ngữ, Pháp ngữ, lên dòng, xuống dòng… chóng mặt“. Ý này ngược với ý ca ngợi “Thơ Việt Nam hiện nay có một bộ phận mang ý hướng cách tân rõ rệt, nhưng thường bị phàn nàn đánh mất ý thức công dân, bỏ rơi những truyền thống qúy báu, sa vào những tìm tòi bí hiểm, rắc rối, cầu kì, nhai lại… đề cập chuyện tình dục lộ liễu, trắng trợn…” và những người phàn nàn đó là vì “không có cơ hội hoặc không muốn tiếp cận những xu hướng phát triển, tìm tòi của thơ hiện đại thế giới” như Phan Huy Dũng trong “Phê bình thơ với vấn đề đánh giá những hành động cách tân thơ hiện nay” (Văn học Việt Nam sau 1975, nxbgd-2006) khẳng định như vậy. Chưa nói đúng hay sai, chỉ nói tới một giáo trình dạy học trò mà có hai khuynh hướng trái ngược nhau thì học trò biết “thọ giáo” ông sư phụ nào mới không bị coi là “ngồi nhầm ghế”!?
Thi ca không nói đến ai đúng ai sai hay ai mới hơn ai. Nó chỉ biết, thơ có hồn hay thơ vô hồn, cảm được hay vô cảm. Nếu cảm nhận chưa thông thì đừng theo khuynh hướng ”cuốn theo chiều gió”. Khen chê cũng bởi nhà ngươi. Khen người hôm trước, chê cười bữa nay! Là sao? Người ta khen Nguyễn Du thì khen viết hay nhưng khen về thi pháp lục bát thì Nguyễn Du chết chắc! Toàn bộ Truyện Kiều, hơn một nửa sai thi pháp (vì gieo trật luật và cưỡng vận). Trần Đăng Khoa trong “Chân dung và đối thoại” trên web site (annonymous.online) cho rằng “Sau kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, với lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu, những tưởng lục bát đã khép lại, không ai còn dám bén mảng đến chân cái toà lâu đài châu ngọc mà nội thất toàn gâm thêu ấy nữa. Nhưng đâu có phải. Nó còn mở bao nhiêu cánh cửa, hướng ra cõi vô biên. Lục bát còn thử thách bút lực các thi sĩ. Nói một cách thông thái như nhà văn Nguyễn Tuân: Anh là nhà thơ việt Nam ư? Vậy anh hãy chiềng ra cho tôi mấy câu lục bát của anh, tôi sẽ nói ngay anh là hạng thi sĩ thế nào?”. Lời “sư tổ”cao ngạo phát khiếp!
Hãy xem Nguyễn Du với “kiệt tác Truyện Kiều” của mình gieo vận trong đoạn lấy đại này nha (chưa nói đến luật):
Nghe chàng nói đã hết điều
Hai thân thì cũng quyết theo một bài
Hết lời không lẽ chối lời
Cuối đầu nàng những ngắn dài thở than.
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên
Hoa soi ngọn đuốc, hồng chen bức là.
Người ta nói “ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép người“. Văn là người. Thơ là một bộ phận của Văn nên nó cũng có tư cách con người. Làm sao mà thoải mái cho những cặp từ sau đây mà đồng âm: điều-theo/ bài-lời/ lời-dài/ than-viên/ viên-chen? Họa chăng nói chại theo tiếng Quảng? vời-ngời, nang-nhoàng, điều-thiều, bài-lài, lời-dời; viên-chiên… còn gì là thơ! Không biết sư ông Nguyễn Tuân cho Nguyễn Du là loại thi sĩ nào đây? Tiếp đến, Phạm Quốc Ca… ca “Nhà thơ tài hoa bậc nhất ở thể lục bát trong thời đương đại là Nguyễn Duy” (Mấy nhận xét về thể thơ trong thơ trữ tình Việt Nam 1975-2000, Văn học Việt Nam sau 1975, sđd) nghe mà… thất kinh! Nói hay không bằng một thấy! Thử đọc lại bài “Tre Việt Nam” được dùng trong giảng dạy, một bài thơ ý mới và tu từ nhân hóa hay nhưng thi pháp 6/8 thì cưỡng vận sai gần hết bài. Chưa nói tới luật, chỉ nói tới cách gieo vần, Nguyễn Duy nhà ta đã gieo vần như mẹ Cám trộn thóc với đậu và bắt Tấm nhặt vậy: Này nha (Trích nguyên văn trong trang thơ Nguyễn Duy, annonymous.onlin.fr trừ màu mè là của người viết):
Mỡ màu ít chất dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre kia không ngại khuất mình bóng râm
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay vin tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho con
Loài tre đâu chịu mọc cong
Có manh áo cộc tre nhường cho măng
Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng, thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Nhìn màu sắc tô đậm (cưỡng vận) của người viết bài này, nào ai có thể cho đây là bài thơ đúng luật 6/8?, chết liền! Cho nên, cuộc thi 99 có tên là bài toán trật đáp số 6+8=99 thì không làm thầy bói cũng biết kết quả như thế nào với những bài lục bát thất luật, cưỡng vận kiểu như Nguyễn Du, Nguyễn Duy và “kính thưa toàn thể đồng bào” thế giới thi ca, chúng ta đều không có ai chẳng có một hai bài lục bát tưởng mình “rằng hay có một không hai, chiếu vần, theo luật, hết sài, uổng không?” (6/8 này đúng luật và vận rõ ràng đó). Vậy thì bắt tay làm lại, không sao cả. Thi luật lục bát không hạn chế chất trí trệ và chất cảm thụ văn học, chỉ có điều, chịu khó thực hành. Nghề nào cũng thế. Lao động chân chính nào mà chả khổ?
Thử xin phép cụ Nguyễn Du và bạn đọc thương yêu văn học cho người viết được gieo vần lại theo một đoạn cưỡng vận của Nguyễn Du:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Thành đoạn tạm thời (chưa chỉnh về luật mấy – phù bình thanh phải ngược với trầm bình thanh):
Vân xem trang trọng vóc hài
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài thẹn gương.
Hoa cười, ngọc thốt, hơi sương
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Trúng vận, đúng luật đã đành mà ngữ nghĩa phải đúng. Nguyễn Du dùng “nét ngài nở nang” là giết sắc đẹp Thúy Vân mất! Người con gái đẹp phải có lông mày lá liễu, lá răm, mỏng dánh. Lông mày nở nang như thế thì thành… hai con sâu rộm đậu trên khuôn trăng Thúy Vân?! Người ta nói “trang trọng khác thường” hoặc “trang trọng tuyệt vời” chưa thấy ai sử dụng “trang trọng khác vời” cả! “Khác vời” vô nghĩa, nó chỉ có tác dụng ”chữa cháy” cho vần nhưng vần cũng… cháy đen!
Đọc thơ, phân tích, bình thơ, đánh giá người đừng nhìn chúng trong lớp áo có chủ nhân là quyền thế, bằng cấp, giải thưởng, huân chương mà hãy đặt chúng ngang hàng cùng một loại thì kết quả mới mang tính công tư khả quan! Đừng “thấy người sang bắt quàng làm họ”. “Người sang, cái… ấy cũng sang. Kẻ hèn có chữ cũng hàng đứa ngu”! Thi pháp cũ là đấy!
Thi pháp đã đặt ra, thơ cũng viết nên lời, hay thì nói hay mà trật luật thì nói trật. Cũng như luật của “Tân hình thức”, kiếm bài hay thấy khó khăn mà có bài hay cũng đố mà có thể chuyển tải nội dung, tư tưởng lớn lao! Vậy khi chấm, thì chấm cái gì ở những bài thơ kiểu này? Mới nói: Thơ không ngại đề tài cũ mới mà chỉ ngại hay hoặc hay không mà thôi! Thơ không ngại dài ngắn, chỉ ngại nhất là tư tưởng và luật lệ. Chẳng có cái thể nào gọi là “thơ văn xuôi” cả. Chỉ có “thể thơ tự do” dễ viết, dễ làm. Khi nó là thơ văn xuôi thì nó nằm trong tùy bút! Văn xuôi viết theo dạng thơ thì ném nó vào loại tùy bút nốt. Có ai đi nhốt con gà vào chuồng con vịt rồi bảo đây là con vịt bao giờ!
Rầm rộ thi pháp, cách tân trong hội nghị “Lý luận- Phê bình văn học” ở Đồ Sơn tai tiếng trong tháng 10/2006 là một điển hình bế tắt phương pháp sáng tác!
2. “Khúc Huyền ca” thể hiện sự tổng hợp các thể loại thi ca có chọn lọc khôn khéo:
Với những trường ca, thơ đều thấy rõ là các tác giả ra sức vận dụng toàn bộ các loại thể của thơ bao nhiêu hay bấy nhiêu. Thơ từ một từ đến đoạn dài nhằng mà ta đùa gọi thơ xe lửa. Một phương thức dùng trong trường ca là điệp từ, điệp ngữ đầu câu:
– Hoàng Trần Cương: Nói về may rủi được thua
Nói về ước mong khát vọng
Nói về nhân ái thuỷ chung
Nói về buồn vui tắt đỏ
Mùi cỏ còn đắng nghét đến hôm nay
Mùi cỏ dẫn con vào năm tháng thơm lành
Mùi cỏ mặn và khắn như lông bò tẩm nắng
Mùi cỏ khét dây trói tay cha
– Đoàn Phú Tứ:
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
– Nguyễn Quang Thiều:
Như chỉ còn sóng rì rào, như chỉ còn lại nước
Như chỉ còn xa xăm, thiêm thiếp những quả đồi
Như chỉ còn gió đi qua rừng bạch đàn thẫm tối
Buồn bã lời thở than của diệp lục suy tàn
– Mai Văn Phấn: Những lồng ngực mang hình quả chuông!
Những ánh mắt trẻ thơ mang hình quả chuông!
Những hộp sọ vang cùng quả chuông!
Những giọt máu vang cùng quả chuông!
– Trần Anh Thái cũng sử dụng điệp từ đầu câu nhấn mạnh như thế và từng mỗi điệp từ mang ý nghĩa riêng biệt phụ trợ cho nội dung nhưng mới ở chỗ chúng không điệp từ dẫn nguyên câu mà câu có điệp từ lại chia ra, nhìn “rất thoáng”:
Những con còng rúc hang
Những vòm cây
Những cơn gió
Ngày…
Như không thấy gì
Như không tồn tại
Như không có bạn
Như không có người
Mây dại lửng lơ
Ngày!…
Ngày!…
Ngày!…
Đằng đẵng… ngày!…
Đặc biệt, Trần Anh Thái đã không “tham lam” dùng thể “văn xuôi” tùy bút vào trường ca. Lạm dụng nó nhiều, trường ca như chàng trai trẻ bỗng chốc hoá ông già! Một phương thức mới cần chú ý, Trần Anh Thái không chen thể lục bát vào trường ca. Lục bát là loại thể dễ đánh lừa người ta. Nó khó làm được hay trong các thể loại. Ta thấy Mai Văn Phấn khi dùng nó trong trường ca “Người cùng thời” thì cũng chung số phận cưỡng vận:
Từ lưng sóng đến chân kè
Hạt cơm xoay xở bốn bề bão giông
Ta và ngọn lửa bập bùng
Trái tim thưa gởi những vùng không gian.
Trường ca “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh cũng thế:
Ngã ba, ngã bảy về đâu
Cái ngáng làm cớ cho nhau chuyện trò
Ngọn đèn bọc trong ống bơ
Cho em mờ tỏ đến giờ trong tôi
Bài ca nghe chẳng rõ lời
Bao nhiêu gió thổi giữa tôi với mình
Xa rừng bẻ một cành xanh
Gieo vần cưỡng vận như thế dù có luật sư vần lưng hay vần thông gì cãi hộ cũng không phá cái án “tay nghề non”.
Phương pháp sáng tác là một quá trình thực hiện những thao tác từ đơn giản đến phức tạp để tìm ra cho tác phẩm mình một hướng đi mà tác phẩm phải có tính thời gian. Thi pháp là cách viết, cách làm. Ví dụ viết trường ca: Không nên ôm đồm mọi thể thơ. Không sử dụng nó nếu như không rành lắm. Không chắc ăn về thể loại thì không nhúng tay vào. Mạnh về thể loại nào thì sài loại đó! Không trình bày khi thì lên đèo, khi xuống dốc, khi viết in, khi viết hoa… những cái đó chỉ tổ loá mắt người đọc. Tránh cái gì của “của tôi” như má tôi, ba tôi, anh tôi, đời tôi… chiếm hết trường ca là “của dòng họ tôi” không! Trần Anh Thái đã cho những thể loại thơ ba từ, bốn từ xen kẽ vào những năm từ, sáu từ đến nhiều từ như các đoạn thơ đã trích trong toàn bộ bài viết. Cho nên, khi đọc một loạt hết hàng chục bản trường ca, người đọc mới thấy được thế mạnh, yếu của trường ca là ở điểm nào.“Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” là sự kết hợp các yếu tố cần thiết để bảo đảm tính vừa phải để nó được tự nhiên mà sống cùng thời gian. Yếu tố kết hợp với cách dùng thể loại thơ là các phép tu từ mang tính thẩm mỹ nhất định.
3. Giá trị thẩm mỹ đặc sắc:
a. Miêu tả ngắn gọn nhưng đầy đủ ẩn ý: Tức “ý tại ngôn ngoại”.
Trong trường ca này, Trần Anh Thái hoàn toàn thả lõng mình. Tác giả chẳng hề kết luận, đánh giá mà chỉ nêu lên sự việc, miêu tả sự vật. Ví dụ để nói về người mẹ trên cánh đồng khô, Trần Anh Thái chỉ tả:
Mẹ ra đi trong đêm
Sương khuya mò bóng
Thượng đế ở đâu nơi hốc mắt thẳm sâu
rười rượi luống cày, chim sếu co ro ngày không gió.
Người đọc tự hiểu người mẹ này như thế nào? Thượng đế này là đang trách hay đang tin? Ruộng cày ra sao qua những từ ngữ có tính biểu cảm.
Trong trường ca “Trầm tích“, Hoàng Trần Cương đã nói dùm hết sắc thái biểu cảm của người đọc vì đã hóa thân vào tuổi thơ để ca ngợi mẹ mình:
Khoai sắn thay cơm
Những đêm trời lạnh
Mẹ lúi húi xâu đèn hạt bưởi
Thổi nùi rơm phù phù cho lửa rạng lên
Soi mặt chữ ả để con ngồi học
Rồi vác vồ đợi trăng lên ra đập đất ngoài đồng
Sương lạnh xuống bạc sờn vai áo
… Sớm mai kéo sụp nón
Sấp mặt ngồi cuối chợ
Nhặt về những đồng xu bạc phếch đất bùn
Nói về thân phận người thợ cày, Trần Anh Thái chỉ viết:
Thượng đế rong chơi
Người thợ cày nhâm nhi giọt máu của mình
Chảy qua những dòng sông cánh đồng biển sâu lam lũ.
mà chẳng một lời bình, một lời kết thì người đọc cũng hiểu người thợ cày lam lũ này đáng thương khi “đổ vào cánh đồng cơn đói mờ run“. Ngược lại, trong “Mặt đường khát vọng“, Nguyễn Khoa Điềm dẫn chứng xong là kết luận liền: “Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng”. Đọc giả coi như, xong!
b. Chỉ sử dụng từ ngữ để biểu đạt tình cảm, hoàn cảnh nhân vật:
Tác giả chỉ dùng từng sắc thái tu từ biểu thị mối quan hệ tình cảm của từng nhân vật mà không can thiệp vào:
– Ví dụ về hoàn cảnh gia đình, tác giả chỉ viết:
Mẹ thức lúc nửa đêm
Cơm tàn tro nguội
Anh tôi biền biệt chiến trường
Bầy chim thản nhiên bay qua.
Người đọc hiểu được nỗi lòng người mẹ như đang ngồi trên đống lửa vì có người con trai đang ở chiến trường.
Để ám chỉ một mái gia đình con thiếu cha, vợ thiếu chồng, “Người cùng thời” của Mai Văn Phấn đã nói hết bằng ngôn từ miêu tả trực tiếp của tác giả:
Những người mẹ
Người vợ vô danh
Mất con
Mất chồng sau cuộc chiến
Trần Anh Thái trái lại, tác giả chỉ dùng ngôn ngữ miêu tả gián tiếp qua “hương khói ban thờ” và “trăng rằm côi cút” tạo hình ảnh:
Hương khói ban thờ đỏ mắt
Trăng rằm côi cút sáng ngoài sân.
Cũng vậy, với hoàn cảnh má Mừng, nhân vật má này chẳng nói gì, tác giả chỉ ghi:
Gương mặt chồng và năm đứa con
Tàn nhang rơi lạnh.
thì người đọc giật mình biết là má có 6 người thân đã hy sinh với 4 từ “tàn nhang rơi lạnh”. Trái với thủ pháp tả “lạnh” này, Mai Văn Phấn trong trường ca “Người cùng thời” lồng mình với thủ pháp “nóng” cùng “khóc” với nhân vật “bà”:
Khóc không thành tiếng cánh diều ước mơ
Hoa văn trên án hương thờ
Nghe trong ruột gỗ người xưa gọi thầm
– Trong “Khúc Huyền ca“, tình cảm “cậu bé và cô bé” không giống bất cứ chuyện tình nào trong văn học. Nó chẳng có từ yêu, không bỏ xuống chữ thương. Tác giả chỉ viết:
Đêm đóng cửa vẽ gương mặt em trong trái tim tôi khi ấy
Cây bút buông rơi trang giấy vo nhàu.
Người đọc biết rằng từ đây, trái tim cậu bé đã có một nữ chủ nhân dễ thương ngự trị. Có nghĩa là “em đã nhốt anh trong trái tim của em”.
Để diễn tả trường tương tư, Trần Anh Thái không “yêu xanh núi, nhớ tím trời” như “Tứ tuyệt tương tư” của Xuân Diệu “hoa tím tương tư đã nở đầy” hay la ó “Lệ Kiều ơi” hỡi như Hàn Mặc Tử với “Trường tương tư” của mình và chẳng giống “Trường tương tư” của Lý Bạch “Nguyệt minh nhân ỷ lâu” (người tựa lầu đêm trăng) hoặc “ruột tằm chính khúc” vò tới vò lui trong “Tương tư” của Tú Mỡ. Cũng vậy, khác với “Tương tư” 6/8 lệch thi pháp và cưỡng vận khổ sở của “Thôn Đoài ngồi nhớ Thôn Đông” mà Nguyễn Bính hít hà. Trái lại, tương tư của “Khúc Huyền ca” nhẹ nhàng, bí ẩn mà… nặng công hơn:
Vô cớ một tiếng chim
Vô cớ u buồn
… Lang thang khắp các nẻo đường
Trĩu nặng dấu chân em.
“Vô cớ” cũng là cái cớ, là một cách biểu hiện tương tư khá cảm xúc. Nó có ca dao phụ trợ phát sinh từ làng thuốc lào Vĩnh Bảo – Hải Phòng:
Nhớ ai như nhớ thuốc lào
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.
– Để biểu thị mức độ tình cảm của tác giả khi dựng lại hình ảnh chiến tranh, hầu hết các tác giả các thể loại cùng chủ đề này nói chung và trường ca nói riêng, cái “tôi” của tác giả nằm trọ trong tác phẩm. Mức độ khen chê, thù hận, thương yêu đều dàn trải hết qua nhân vật “tôi” này. “Khúc Huyền ca” không hề biểu hiện một thái độ của cá nhân chủ nghĩa trong tác phẩm. Đó là một tư duy theo phương pháp mới khi phác họa lại hình ảnh chiến tranh. Qua bao nhiêu năm, dĩ nhiên, cái nhìn về chiến tranh phải khác đi. Nhận xét, kết luận về kẻ thù cũng nên hiểu ở mức độ giá trị con người chứ không nên đánh đồng là thú vật với những từ ngữ “mày, tao, nó, thằng, quỷ, cá mập, rắn độc, xà tinh”.
Một ví dụ điển hình: Ngay cả “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” khi in, ban biên tập cũng cắt đi một nửa câu, đoạn nào chửi độc nhất, thù hận nhất về Mỹ, Ngụy của nữ bác sĩ liệt sĩ đáng thương này! (không tin thì độc giả thử đọc và đối chiếu bản chữ viết tay của cô và sách đã in thì rõ). Cắt để phù hợp với thực tế hay cắt để sách bớt nặng ký về chính trị, bang giao hoặc mục đích nào khác thì việc làm đó là coi thường độc giả, không trung thực và tôn trọng tác giả. Chi bằng, mình viết ra theo một quan điểm nhân văn mới như Trần Anh Thái thì việc làm này được coi quanh minh lỗi lạc hơn. Chỉ một đoạn ngắn:
Tôi nghe lạnh giữa hai bờ cuộc chiến
Cái chết nối hàng
Cái chết tiễn đưa nhau.
Quan niệm của người lính cũng như tác giả về cuộc chiến đã rõ ràng. Cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của Việt Nam dừng lại ở mốc nào? Nội chiến bắt đầu từ mốc nào và kết thúc?
Cái chết
Bom vùi lấp mặt
Mặt trời lấp mặt
Xác quân thù xác bạn gục vào nhau.
Kéo hoàng hôn rã rời
Xác này là xác của ai? Ta là ai và địch là ai? Mốc thời gian nào thì còn giặc Pháp, Mỹ? Mốc thời gian nào thì nội chiến? Không còn giặc ngoại xâm thì ta múa kiếm đằng đông, ta dóng trống đằng tây đánh ai đây? Không thấy nói. Tác giả chỉ miêu tả lạnh tanh :
Bóng người dìu nhau bết máu. Màn đêm lặng phắc bãi chiến trường, gió khô mặt đất. Mơ hồ cơn co giật, tiếng gọi thất thanh, tiếng kêu cứu vớt, ròng gương mặt thời gian ám mùi bom đạn.
Những xác chết ngổn ngang hình hài méo mó. Từng nhúm xương chắp vá vô tình đêm tối mò tìm. Căn hầm nồng nặc.
Bầu trời những vì sao tối dần, cái chết im lìm chờ cuốn ni lông đưa về đất. Thời gian rỉ máu, không gian ngột ngạt tanh nồng. Côn trùng rền rĩ.
Họ đã đi tới đích cuộc đời. Không còn tường thành giam hãm.
Giữa trận chiến ai mạnh nấy thắng, ai bắn giỏi ấy hơn thì làm sao có chỗ ưu tiên “máu anh phun theo lửa đạn cầu vòng” như Lê Anh Xuân đã ngoa dụ trong “Dáng đứng Việt Nam“ để cùng Tố Hữu và các trường ca, thơ ca kháng chiến “hoan hô anh giải phóng quân, kính chào anh con người đẹp nhất”? còn máu kẻ thù tụi bay thì tanh tưởi bùn sình? Ngược lại với hình ảnh này, người lính trong “Khúc Huyền ca” với tư cách một kẻ thắng trận:
Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc
Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau.
Không biết người Chiêm Thành có lịch sử? Chẳng hiểu người Campuchia có lịch sử? Trong lịch sử của nước họ, họ có gọi Việt Nam với những danh từ thú tính hay không? Vì sao có “Hận Đồ Bàn”? Có công chúa Huyền Trân đáng thương trong một sự đổi chác đang còn lưỡng phân không biết là để nối tình đoàn kết hay chỉ lấy cớ xâm lăng? Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau lại là “những ngôi tháp chàm rêu phong cổ kính, bầy dơi nghe động bay vù, con sư tử đá nằm lim dim ngủ, hàng dừa xanh thấp thoáng sương mù” đã hiện diện trong trường ca “Bài ca chim Chrao” của Thu Bồn từ thuở nào!
– Nói về số phận những người mẹ: Như má Mừng. Tác giả không giới thiệu đây là người mẹ có công cách mạng tác giả chỉ tả ngắn gọn:
Chiếc lán cứu thương năm chiến tranh
Giờ mọc vài cụm cỏ dại
Trống hai bàn tay trống ánh nhìn.
Người đọc hiểu ngay công việc má làm “cứu thương” và số phận chung đầy “cỏ dại”. Má nhận lấy sự đau đớn vì 6 người trong gia đình hy sinh với một thái độ câm nín mà sống:
Hai mắt ngây nhìn
Rừng xưa lá rụng đăm đăm.
Bày tỏ tình cảm cho nhân vật, tác giả tự hóa thân vào thiên nhiên:
Ngày xa dần
Mây bay lơ lửng
Sông Vệ thẫn thờ xanh.
Con sông là biết “thẫn thờ” huống chi con người!
c. Giá trị lịch sử: Thời bao cấp.
Thời bao cấp kéo dài trước 1975 nhưng tiểu biểu nhất từ 1975-1986.
Nói về cái khó khăn của người chị, tác giả chẳng liệt kê dài dòng mà chỉ nêu một vài từ tiêu biểu:
Chị giật mình
Gói mì tôm chuột tha đi mất
Tem phiếu nửa mùa
Bữa ăn chống đũa.
Thời tem phiếu ai nghĩ tới cũng kinh. Kẻ nhắc lại rùng mình. Từ Nguyên Tĩnh trong vnweblogs.com của mình với “Tôi viết trường ca Hàm Rồng” cay đắng nhìn nhận: “Thời ấy, tem phiếu mà mất là cả một năm vợ con phải ăn lạt”. Vậy thì ai có thể ăn sung mặc sướng trong thời kỳ bao cấp ấy? Kẻ đó không là bề trên thì cũng quan tham nhũng như Trần Dụ Châu (đại tá cục trưởng cục quân nhu). Tử hình các địa chủ, phú nông với tội danh “bóc lột” năm 1956-1958 hay tử hình Trần Dụ Châu với tội danh “tham nhũng” năm 1949 thì thời hậu chiến, còn bao nhiêu “đại gia”, sư tổ Trần Dụ Châu nữa sống sờ sờ. Hóa ra, Trần Dụ Châu chết không có đồng bọn, bạn bè. Nước Việt Nam sẽ không có từ tham nhũng vì “các nhà làm tự điển chưa xác định được thuật ngữ mới, chắc phải hỏi các quan thanh liêm’ như Từ Nguyên Tĩnh viết trong “Tên gọi không còn đúng nữa”:
Rồi một lúc nào đó tên gọi
Tham Nhũng sẽ không còn đúng nữa
Tham nhũng chỉ là quấy nhiễu hạch sách dân
để ăn chút tiền còm
Con gà con vịt ở nông thôn
Không có ai bị tử hình vì tham nhũng như nói trên thì sao nhà nước lại lo lắng về nạn tham nhũng hiện nay nguy hiểm đến mức mà các nhà đấu tranh tự do gọi là “quốc nạn”? Té ra, thời chiến, Trần Dụ Châu chỉ là ăn “Những mảnh vụn chiến tranh” thôi. Còn bây giờ, mảnh vụn ấy cũng không còn cho những người sống bằng nghề ve chai, nhôm nhựa, phế liệu kiếm chác vì ‘không có miệng mo có đâu cho bồ đài’! Hóa ra, đất nước mình giàu lắm vì chẳng ai tham nhũng mà mình không biết đó thôi! Nếu có, tử hình hết theo luật rồi. Vương Trí Nhà trong “Thời bao cấp và tác động của nó lên con người” (saigontimes.com) thở dài: “trong cảnh nghèo rỗi rãi, người ta rất hay soi mói để ý đồng nghiệp và hàng xóm. Nghi ngờ xen lẫn ghen tị. Ghen tị một cách tự nhiên, thậm chí không biết rằng đang làm một hành động độc ác. Cùng cảnh khổ với nhau, không lẽ gì có người hơn kẻ kém. Vậy không ai được phép hơn mình. Không cho ai ngóc đầu lên cả. Cách gì cũng có thể làm, miễn là kéo được nhau xuống”.
Trần Anh Thái nhẹ nhàng hơn về người chị trong một giai đoạn bị coi là giai đoạn chết nửa con người trong thời kỳ nghẹt thở vì chen chúc sống với lũ gia cầm hay heo chó:
Những năm ở rừng
Cơm nắm chia tư
Trong trời trong mắt.
Hoà bình lánh mặt
Nước mắt giấu đêm
Qua đường ngần ngại.
Chỉ một vài chi tiết là có sức tải tái hiện lịch sử một thời kỳ đau thương sau hậu chiến, “Khúc Huyền ca” tự nó đã có dáng dấp của một trường ca thể hiện chủ đề, tư tưởng lớn “trầm tích” mà khó có trường ca nào bắt kịp phương pháp sáng tác này. Khi người ta nhớ lại một thời kỳ khổ đau đi cùng năm tháng, khốn cùng kèm theo tên tuổi thì người ta sẽ thấy nó có giá trị “biện chứng lịch sử” vì bản thân tác giả Trần Anh Thái và hầu hết người sáng tác không là cán bộ bậc tem phiếu cấp 1, 2 hay 3 thì đều là nạn nhân của thời bao cấp. Giá trị những bản trường ca nói riêng và văn học nói chung ra đời trong thời kỳ này đều giảm đi giá trị được có của nó. Nếu tác phẩm muốn sống, người đẻ ra nó phải… tùng xẻo con mình ít nhiều theo kiểu “không ở bầu thì cũng phải tròn, chẳng ở ống thì cũng phải dài’ nhiều khi, cha mẹ phải “ăn thịt” con một nửa mới đẩy được nó ra đời. Những đứa con tật nguyền trong văn học có hôm nay, phần lớn chính là từ thời đen tối trong lịch sử này. Người ta nghĩ ngay đến “Khoảng khắc im lặng của chiến tranh” của đạo diễn Vũ Phạm Từ, “Hà Nội trong mắt ai” của đạo điễn Trần Văn Thủy. Những người có tên, có tuổi và có… “vấn đề” thời ấy cũng được trình diện trong mắt ai như Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo, Trần Tiến… Những đứa con ấy lại lai căng đẻ ra những tác phẩm kinh dị nằm nghiêng, nằm ngữa trên gường từ khách sạn cho tới ruộng đồng hiện nay tràn trong văn học mà văn học chưa đủ năng lực sàn lọc. Ai là người sống thanh thản thời ấy? Vẫn là cán bộ cố dân. Họa hoằn dăm kẻ dấn thân chiến trường!
Hiện nay, phòng trưng bày Hà Nội trưng bày hiện vật lịch sử của “Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp” vẫn mở cửa chào đón người tìm về bóng dáng xưa để trân trọng hơn cuộc sống hôm nay mình đã may mắn không phải vật lộn với con chuột từng gói mì tôm!
d. Giá trị tìm về nguồn cội:
Như nuối tiếc cho một cái gì quý báu vừa đánh mất, thi ca thường tìm về con đường nguồn cội của mình. Lưu Quang Vũ bắt đầu “Tôi đi tìm dòng máu của tôi. Hơi thở đầu sôi sục của tôi” trong “Đất nước đàn bầu”. Ta có thể thấy được hình ảnh đất nước và dòng máu tổ tiên trong “Bên ô cửa sổ tần sáu, âm xa (Nguyễn Văn Duy); Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm); Đất nước ta, Người đi tìm hình của nước, Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên); Đất nước vào xuân, Dư đồ tổ quốc (Bảa Định Giang); Đi giữa mùa xuân (Chế Lan Viên), Tự thuật của người lính (Hữu Thỉnh) Thử nói về hạnh phúc (Thanh Thảo); Giờ quốc sử (Đoàn Văn Cừ); Nam Quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt); Ta đi tới, Nước non ngàn dặm, Việt Nam máu và hoa (Tố Hữu); Nhìn từ xa tổ quốc, Tre Việt Nam (Nguyễn Duy); Đêm phương Nam nhớ về tổ quốc (Trần Mạnh Hảo), Tổ quốc (Huy Cận); Tiếng đàn bầu và đêm trăng (Trần Đăng Khoa); Việt Nam quê hương ta (Nguyễn Đình Thi); Tụng Tây hồ phú (Nguyễn Duy Lượng); Đào Nguyên ca, Brahma (Đào Văn Kỷ)…
Tìm về nguồn cội tổ tiên và giải mã giấc mơ của người đạo sĩ là cái đích tới của “Khúc Huyền ca“. Trong trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời“, Trần Anh Thái từng trăn trở về nguồn cội với con đường khai mở từ:
Cánh đồng mọc ra từ máu thịt ông bà
Lửa đậu đêm đêm ban thờ tiên tổ
để nói về một khắc khoải của hành trình tìm về nguồn cội tổ tiên, “Khúc Huyền ca” của Trần Anh Thái không viện dẫn đất nước tôi tôn quý “Đất là nơi chim về, Nước là nơi Rồng ở” như Nguyễn Khoa Điềm trong “Mặt đường khát vọng” hay đất nước là “nơi có Thánh Gióng bay lên, nơi có cô Tấm hiện về” của Hoàng Trần Cương trong “Trầm tích” … mà tác giả chỉ dùng những ví von câu đất nước như:
Chiếc đỉnh đồng mất lửa
Những tàn nhang đã tắt
Mặt trời tắt
Ý nghĩ rối mù
Đêm vang hỗn độn,
Người mò mẫn tìm lửa ở nhà mình
Tàn tro đã nguội
Người ngồi thật lâu
Gầy buồn thế kỷ.
“Trăm thứ lửa” của Xuân Diệu ngày nao đòi đốt lên “cho bừng tia mắt đọ tia sao” tắt lịm. Ngọn “lửa thiêng” của Huy Cận cũng ngủm cù đeo theo lịch sử. Mặt trời tắt thì thì người hãy tự đốt lửa nhà mình lên. Tro tàn đã nguội lạnh, nhóm lên cũng thật lâu. Người ngồi chờ lửa cháy, chờ mòn thế kỷ! Buồn đến thế! Mặt trời tắt thì làm sao biết được đâu là ranh giới giữa ngày và đêm? Không nhìn thấy ngày và đêm thì làm sao biết người nào chơn hay ác? Vậy thì phải nhờ vào một người nào đó đáng kính trọng chỉ đường. Một nhân vật huyền thoại xuất hiện trong mơ:
Đêm đêm giấc mơ trở về
Người đạo sĩ chống cây gậy trúc
chỉ tay về phía biển Đông
Mặt trời đang mở sáng…
Chỉ cần đọc phớt danh từ “đạo sĩ”, với động từ “chỉ tay“, người đọc sẽ nghĩ rằng Trần Anh Thái bị… tẩu hỏa nhập ma bởi khi khổng khi không cho vời ông đạo sĩ nào đấy từ đạo Lão bước vào trường ca mà làm bùa phép!! Cười! Đâu nghĩ rằng, bản trường ca thứ ba của Trần Anh Thái có cái độc đáo của nó ở chỗ khi nào nó ẩn vào những trang đêm dài động não, nó là “Khúc Huyền ca”, khi nào nó chui ra ngoài ngày dễ thấy, nó là “Ngày đang mở sáng“. 4 câu thơ một dòng suy tưởng, một giấc mơ lịch sử mở đường ngày nao với những đoàn quân vi-king mở nước thời xửa, thời xưa, thời ta chưa ra lò, thời con người chưa giở trò lừa dối.
“Người đạo sĩ” ở đây không xuất thân từ đạo Giáo, đạo Lão hay từ phái Võ Đang tận bên Tàu như Khấu Khiêm Chi, Lý Thiếu Quân, Lý Xương Linh, Lục Tu Tĩnh, Văn Tử, Vương Huyền Phụ hay Trương Đạo Lăng, Trương Tam Phong hoặc Võ sĩ đạo tận bên Nhật hay gã “Phong Vân đạo sĩ” thời nhà Mạc chuyên làm điều trái đạo.
“Cây gậy trúc” ở đây cũng chẳng phải ám chỉ quyền lực của ông tổng thống Argentina, chẳng phải cây gậy trúc chỉ dành cho “con bướm ngủ” của nhà thơ thiền sư Basho. Nó chẳng phải cây gậy trúc buồn đời của Hồng Thị Vinh trong “Đời ngàn dặm“, hay cũng chẳng phải là cây gậy trúc của Tiểu Khiếu Hoá trong “Hồng nhan đoạt phách” hoặc của Du Thản Chi trong “Lục Mạch thần kiếm“. Nó cũng chẳng là cây gậy trúc của cụ Thượng từng giúp chàng Lê thoát nạn bởi tay “Phong Vân đạo sĩ” trong truyện “Xuất xứ” của Phạm Lưu Vũ. Nó cũng chẳng phải cây gậy trúc giúp bà cụ của Thạch Lam thêm “cái chân” trong “Dưới bóng cây Hoàng Lan“. Nó khác xa cây gậy trúc gần đây làm người ta thất kinh với những “thánh thủ thần thâu” chuyên móc đồ nhà người dân được gọi theo kiếm hiệp là ‘Cây gậy thần kỳ’ của đạo chích Hà Nội” (vnmedia.vn).
Vậy ám thị “người đạo sĩ” và “cây gậy trúc” trong “Khúc Huyền ca” có ý nghĩa gì? Đơn giản chỉ là tổ tiên (đạo sĩ) và phép màu quyền lực (lịch sử 4000 năm mở nước). Đó mới chính là nhân vật linh thiêng, quyền uy, phép màu huyền diệu nhất mà không một người nào yêu đất nước mình dám bày tỏ thái độ khinh mạn và bất kính:
Ký ức sáng trên vầng trán người đạo sĩ già
ẩn cư miền cao Yên Tử
Chòm râu phơ phất ưu tư.
Ở đây, thật lý thú bất ngờ khi Trần Anh Thái đưa người đọc về một nơi thánh tích: Núi An Tử hay An Tử Sơn nằm ngay ở quê hương mình. An Tử Sơn là đất tổ của Phật giáo, một đạo lành mạnh, lấy chữ “Đức-Nhân” là đầu mà hầu hết người Việt Nam đang tôn kính. Núi An Tử cũng là nơi “hoàng tích” vì đức Trần Nhân Tông (con vua Trần Khâm-Trần Thánh Tôn và cháu nội của Trần Cảnh tức Trần Thái Tông) cha của vương hậu Chế Mân tức Huyền Trân công chúa, là một vị vua hiền đức và tài năng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, tu hành ở Bạch Am Tự. Tìm về di tích tổ tiên tức là tìm về truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm và sự phát triển nền văn hóa tinh khiết nhất của dân tộc. Một thời đại nhà Trần đáng tự hào khi tất cả hoàng thân quốc thích, từ phụ lão đến nữ lưu tạo nên một lịch sử giữ nước hào hùng mà trong đó có Chương Dương- Hàm Tử Quan khúc (Tòng giá hoàn kinh) mà Thượng tướng Trần Quang Khải sang sảng đọc năm 1285 là một điển hình:
Đoạt sáo Chương Dương độ.
Cầm hồ Hàm Tử Quan.
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
Yên Tử với thiền viện Trúc Lâm thành nơi lễ hội hàng năm rộn rã suốt ba tháng mùa xuân. Yên Tử nơi thanh thản của lòng nhân với “Tham. Sân. Si” trần đời rũ sạch. Thái thượng hoàng Trần Thái Tông “người có cả một vương triều” lại không màng nhung gấm vàng son. Hỡi ơi! Sao có lắm kẻ ngồi lâu chai cả ghế, lỳ cả tảng đá rêu rong! Thế mới ca rằng “Người biết Nghĩa tất không tham. Người biết Đức tức không thích tiếng tăm lừng lẫy. Người biết Khiêm Nhường tất biết chỗ ngồi của mình”. Bốn điều hạnh phúc chính là: “Thân xác khỏe mạnh. Tinh thần tự do. Trái tim trong sạch. Tâm hồn nhân ái”.
Người đạo sĩ già trong “Khúc Huyền ca” vẫn chưa đạt tới đỉnh cao của đạo đời khi chòm râu còn “phơ phất ưu tư”. “Ưu tư” vì “Non sông ngày đổi đêm dời. Máu rơi, thây đổ lệ rơi hàng hàng“! Tổ tiên dựng nước vẫn chưa yên lòng, kẻ cháu giữ nước gây cảnh “cốt nhục tương tàn”, bán thân, dâng đất cho người ngoại tộc, há quả là bất nhẫn! Nhạc sĩ nhân văn Trịnh Công Sơn đã đúc kết tiền đồ của tổ tiên để lại trong “Gia tài của mẹ” chỉ là “một nước Việt buồn“:
Gia tài của mẹ một bọn lai căng
Gia tài của mẹ một lũ bội tình.
Vậy thì chỉ còn cách ước mơ tự do chân chính và khát vọng mở lòng thân ái theo tay chỉ của tổ tiên, hãy nhìn về biển đông…
Biển Đông (marginal sea) – Biển Nam Trung Quốc: Nơi ấy đang tranh chấp những quần đảo không người ở nhưng tài nguyên biển phong phú. Biển Đông gợi lại một Trường Sa đã mất về tay Trung Quốc- một người anh em cộng sản được coi là “môi hở răng lạnh”. Biển Đông vẫn đang nhuộm đầy máu đỏ của binh lính hai miền trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ mà các nước chung quanh đang xâu xé.
Biển Đông, nơi chôn xác hơn một triệu người vượt biển tìm tự do và biển đông cũng ngày ngày đón con cháu họ trở về quê cha đất tổ. “Cáo chết còn quay đầu về núi” huống chi “con người có tổ, có tông như nhà có nóc như sông có nguồn”. Tổ tiên không từng nhắc nhở chúng ta “có nhìn xa mới thấy rộng” sao? Người ta vẫn không quên trong “Bài ca mùa xuân 61” của Tố Hữu có những câu đáng nhớ đời cho sự nhìn xa thấu rộng này:
Chào 61 đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng.
Trông lại nghìn xưa trông tới mai sau
Trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu.
“Ngày đang mở sáng” đã mở ra một địa cầu bốn hướng bằng Địa Trung Hải:
Tôi ra bến tàu
Địa Trung Hải một màu đen huyền thoại
Vách núi in chi chít bàn chân.
Địa Trung Hải nối liền Á, Phi, Âu châu nằm theo hướng Tây Bắc. Châu Phi với dòng sông Nil 7 nhánh đổ vào biển Địa Trung Hải tạo nên một nền văn minh sông Nil. Nhà thờ đá Lalibela cổ kính với thánh đường Hồi giáo Abu El Abbas, phố cổ Alexandri và Samạc Sahara bốn mùa gió cát.. gợi một thời kỳ văn minh cổ xưa đẫm máu. Người đi tìm về Ai Cập cổ đại-nơi phát sinh nền văn minh sớm nhất của nhân loại với hội họa, điêu khắc, thuật ướp xác, những kim tự tháp độc đáo và 7 kỳ quan đứng nhất thế giới (Lăng mộ Giza, Muasolus, vườn treo Babylon, tượng thần mặt trời, tượng thần Zeus, hải đăng Alexandria, đền thờ Arlemis-Diana). Châu Âu với Hy Lạp cổ đại là một trong những nền văn minh nhất thời cổ đại với những thần thoại Hy Lạp độc đáo, nền triết học phươntg Tây, toán học, Olympic sớm nhất nhân loại. Mắt mở rộng tầm nhìn. Người mở rộng vòng tay thân ái. Khát vọng nẩy sinh. Mặt trời xuất hiện theo một nghĩa tượng trưng.
e. Hình ảnh “mặt trời”: Con người và trí tuệ.
Mặt trời (nằm trong hành tinh được gọi là hệ mặt trời – thái dương hệ với 8 hành tinh quay chung quanh) thực ra chỉ là một ngôi sao trong 200 tỷ (có web ghi 100 tỷ) ngôi sao tương tự của thiên hà tức dải ngân hà trong không gian vô tận. Giá trị của nó là tạo ra nguồn năng lượng cần thiết để cho trái đất – vệ tinh của mặt trời – duy nhất có sự sống. Do có thể tái tạo sự sống đó, mặt trời được thần tượng hóa như quyền lực và sức sáng tạo tương đương vị thần trong các thi ca cổ đại. Nó là hình ảnh tượng trưng cho một thế giới siêu nhiên. Cho nên, chinh phục được nó là chinh phục được thiên nhiên như “Trường ca Đam San“, nhân vật Đan San đi bắt nữ thần mặt trời về làm vợ. Mặt trời còn mang ý nghĩa tượng trưng cho cuộc sống lúc bình minh. Mặt trời cũng là một nhân vật chính có tên Helios, một trong nhân vật chính của “Thần thoại Hy lạp“. Tượng thần mặt trời dựng ở Rhodes là một trong 7 kỳ quan của Ai Cập cổ đại.
Trong văn học Việt Nam, dùng mặt trời theo biểu tượng hơi nhầm vật lý là “vầng thái dương” trong việc ”làm đuốc dẫn đường” đã được nhân hóa và so sánh như một lãnh tụ mà Tố Hữu từng ca ngợi:
Bác Hồ là vị cha chung
Là sao bắc đẩu là vầng thái dương.
Mặt trời còn được ví như người cha trong loại hình 7 nốt như trong “Tình cha“, Ngọc Sơn ví “Tình cha ấm áp như vầng thái dương. Lặng lẽ tỏa những hào quang chói lọi để sưởi ấm trên từng bước đường con đi”. Những cái gì tốt đẹp, cao quý, có chất trí tuệ, người ta dành cho những người mà họ kính trọng. Ví dụ như “Puskin là mặt trời của thi ca Nga“, “Trịnh Công Sơn là mặt trời trong âm nhạc và hãy để mặt trời ấy được ngủ yên”. Bùng nổ ca nhạc như không gian bùng nổ tia X với những đầu đề có tên mặt trời như “Mặt trời dịu êm, mặt trời trước biển, mặt trời ngủ yên, mặt trời lạnh, mặt trời hồng tỉnh thức, mặt trời bên kia miền lạnh, mặt trời bé con, mặt trời của Siu…”
Mặt trời trong “Khúc Huyền ca” không phải là “mặt trời chân lý chói qua tim” của Tố Hữu mà chỉ là mặt trời ước mơ của tuổi thơ trong khúc I:
Tôi hào phóng tung những con tàu cất giấu trong mơ
Bay mãi mãi về phía mặt trời bí ẩn.
Nó gần gần với “mặt trời bé con” của Trần Tiến với ngụ ý là mặt trời tương lai hạnh phúc của trong khúc II khi có “Em”:
Đôi môi hứng khởi thẹn thùng
Sẽ cùng tôi yên tĩnh dưới mặt trời dịu nắng.
Nhưng như vật đổi sao dời, mặt trời hạnh phúc của tuổi thơ cũng mất theo chiến tranh. Cuộc đời lộn xộn, mặt trời cũng ngủ vùi trong khúc III:
Mặt trời tắt
Ý nghĩ rối mù
Đêm vang hỗn độn
Mặt trời trở thành niềm tin và thất vọng đã bị đánh tráo trong trường ca “Trên đường”:
Niềm tin và thất vọng
Đâu ánh sáng mặt trời.
Không thấy mặt trời nên người ta không thể biết đâu là lằn ranh của ngày và đêm nhưng một giấc ngủ vùi lãng phí thời gian cũng chẳng làm sao phân được đêm và ngày! Không phân biệt đâu là đen trắng, đâu là ác hiền. Con người như đi vào bóng đêm mù lòa, nhòa nhòa ký ức. Thế Lữ trong “Nhớ rừng” đã nhân cách hóa con hổ bị nhốt đang “ngậm một mối căm hờn trong củi sắt” than thân:
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Con hổ-Thế Lữ- tất tả chạy theo “Cha vác kheo đi dưới mặt trời“ của Trần Anh Thái trong trường ca “Trên đường” để “chiếm lấy riêng điều bí mật” sau cái chết của mặt trời, còn làng trong “Đổ bóng xuống mặt trời” thì ngược lại, không bí mật gì cả, chình ình ngay ra đó “làng nhỏ nhoi mọc trước mặt trời”. Chu Văn Sơn trong “Đoản ca về trường ca” (trường ca thứ hai “Đổ bóng xuống mặt trời“) nhận thấy “Thái đã trút tất tật máu thịu hồn vía vào những suy cảm căng thẳng và lao lung của mình. Suy cảm bao trùm lên tổng thể mạch thơ, suy cảm dồn trút vào từng chi tiết hình ảnh thơ, suy cảm nuôi dưỡng cả một hơi thơ khoẻ đều từ đầu chí cuối để theo cho được cái hơi thở phì nhiêu quyết liệt của Làng”. Người chạy theo thời gian cũng như trái đất quay chung quanh mặt trời. Trước mặt trời, làng phải được khai sinh đón ánh nắng đầu tiên khai mở. Cha đi dưới bóng mặt trời vì cha chạy theo thời gian. Sáng, bóng người cùng mặt trời nhập một. Trưa, người đổ bóng vào mặt trời vì mặt trời ở đỉnh đầu. Chiều, mặt trời xuống núi, bóng người chìm theo mất dạng mặt trời với “những mảnh vỡ mặt trời xô ngang mặt nước”. Nhưng theo quy luật thiên nhiên, ngày mai, nó hồi sinh. Con người cũng như mặt trời, chiều đi sáng lại khi nói về giá trị giàu nghèo, tốt xấu nhưng khi nói về quy luật, con người bé nhỏ bao giờ cũng tắt trước mặt trời. Con người lại theo quy luật con người “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”.Xoay vòng theo quỹ đạo con người cũng như muôn vì tinh tú vẫn quay theo quỹ đạo của chúng trong không gian vô tận. Sự vật, sự việc nào cũng phải theo quy luật tồn tại! Mặt trời cũng như con người. Người thiếu ăn, người chết. Mặt trời hết năng lượng, mặt trời cũng… đi! Nó cũng quay trong hệ thái dương của nó theo thiên hà, và phân phát lửa, tái tạo nguồn sống vô tư cho đến một ngày, dòng vật chất và năng lượng mất đi bức xạ mặt trời, chính là ngày nó thành mặt trời đen, băng giá vĩnh viễn và nó chết. Cái chết của mặt trời kéo theo những vệ tinh xung quanh nó mất nguồn sưởi ấm, chúng cũng… ngủ vùi! Sát thủ của trái đất là ai nếu không trực tiếp là con người? Sinh ra và sẽ chết đi, mặt trời cũng có bình minh và có hoàng hôn như cuộc đời.
Thi Hoàng trong “S.O.S” kêu:
Hãy cứu! hỡi chính quyền, tôn giáo
Để xác chúng tôi được chết trước hồn
Chứ nếu để tâm hồn chúng tôi chết trước
Vậy là lấy dây diều treo cổ những hoàng hôn!
(Tập thơ Bóng ai gió tạt).
“Khúc Huyền ca” thấy được sự tương quan sinh thái tự nhiên đó, nó thở dài:
Hoàng hôn mặt trời
Bóng tối lặng thinh.
“Bóng tổ tiên khuất sau bóng mặt trời“ vì người khuất mặt không bao giờ đối diện được mặt trời. Luật âm dương đã phân. Thế giới ảo là tưởng tượng mà có. “Cõi âm khắc luật” hay “cõi người khắc luật” là thế! Tổ tiển hóa thân vào con người. Con người có thể hồi sinh mặt trời, làm cho “mặt trời nóng dần lên những giấc mơ khô khát” qua hình ảnh “người đánh cá già” trong trường ca “Trên đường“:
Bóng người đánh cá già lồng lộng in vào trời đất
Đôi mắt sáng tiên tri chỉ tay về phía mặt trời đang tan trong làn sương.
Tiến lên một bậc, tổ tiên hóa thân vào người đạo sĩ trong “Khúc Huyền ca” với khúc cuối cùng:
Người đạo sĩ chống cây gậy trúc
chỉ tay về phía biển Đông
Mặt trời đang mở sáng…
Mặt trời hạnh phúc tuổi thơ đã qua nhưng hạnh phúc không có tuổi nên không biết đến sự già cỗi. Nơi nào có mặt trời mọc, nơi đó có sự sống và hạnh phúc vô biên, “Khúc Huyền ca” một lần nữa tha thiết nối tình người với 4 không: Không biên giới. Không tuổi tác. Không giai cấp. Không thời gian:
Mặt trời sắp lên rồi sao em chưa đến. Gió đang vỡ ra trên
vòm lá xanh rờn.
Cuối cùng, nó trở về với thi ngôn bất hủ: “Không có mặt trời cho một mặt trời“. Trái đất không thể có hai mặt trời. Một đời không thể vừa trung thành vừa bất nghĩa. Một nước không thể có hai vua. Một chùa không thể có hai trụ trì. Mặt trời có lợi tái tạo sự sống nhưng cũng là hủy diệt trái đất khi con người tự phá hỏng tầng khí quyển Ozon (tấm chắn tia cực tím – bức xạ hạt, bức xạ điện từ- từ mặt trời ) khi thải chất CFC (Khí chlorofluorocarbon) và chất SACO phá hủy nó cũng chính tự hủy diệt mình, còn hơn chiến tranh! Không có bữa ăn nào dọn sẵn cũng chính là đấy! Chiến tranh và cái chết làm nghẹn mặt trời và nó được nhân hóa với tư cách bè bạn của nạn nhân chứ không còn là biểu thị uy quyền, ước mơ gì nữa cả trong khúc X:
Có bao nhiêu người không về
Rưng rưng nắng ngày rưng rưng mặt trời xa…
Trường ca “Trên đường“ cũng “đỏ một mặt trời rỉ máu”. “Rỉ máu” dòng máu tổ tiên “khuất sau bóng mặt trời“. Vì sao con người bắt gặp mặt trời là “ngược ánh sáng mặt trời“? Đơn giản như người ta ăn cơm: Mặt trời có bao giờ mọc ở dưới đất đâu mà người ta cuối xuống mới không ngược sáng? Theo nghĩa thật vật lý là thế. Mặt trời mang ý nghĩa tượng trưng nên phải giải mã theo ý tượng trưng: Nhìn lên để tôn trọng, để được an ủi và được cầu xin. Mặt trời theo nghĩa có tư cách đồng hạng người thì giải mã theo kiểu làm người: “Cuối xuống thật gần” như Trịnh Công Sơn đã từng cuối xuống và người đời cuối xuống trước mồ người:
Cúi xuống cho máu ngược dòng
Cho nước sông cạn nguồn
Cho cây khô trên cành trút lá bơ vơ
Cúi xuống cho bóng đổ dài
Cho xót xa mặt trời
Cho da thơm trên người nay cũng phôi pha…
Làm người đừng bao giờ cúi xuống vì danh lợi mà cầu cạnh nhưng làm người hãy “cúi xuống để biết lòng đau, ngước lên để nhận lấy câu nghĩa tình”. Vì sao người “đổ bóng xuống mặt trời“? Vì “cúi xuống cho bóng đổ dài… Cúi xuống cúi xuống thật gần. Cho chiếc hôn ngọt nồng. Cho trăm năm ưu phiền phút chốc hư không”. Mặt trời, nhân vật huyền thoại, bề trên, đấng thiêng liêng, là cha mẹ, là tổ tiên đã hòa với tiếng hát qua những thăng trầm cuộc đời trong tư cách bạn bè, con người như “mặt trời trong lòng đất” của Trần Mạnh Hảo về một ‘dĩ vãng quanh ta rưng rưng sương khói” trong trường ca “Người cùng thời” của Mai Văn Phấn. Dù thần thánh hóa lãnh tụ nhưng Tố Hữu vẫn là người có tư tưởng nhìn xa thấu rộng trong trường ca “Theo chân Bác” về một ước mơ “Đem ngày gần lại, đổi năm xa. Nghĩa lớn tình chung, vẫn ruột rà. Bốn biển anh em hoà hợp lại. Trăm đường một hướng, nở muôn hoa”.
Ước mơ một chân trời tươi sáng, một không gian sạch trong, một cuộc sống chở đầy mộng lành không của riêng ai. Tố Hữu từng treo những khát vọng đó năm 1961:
Gà gáy sáng. Thơ ơi, mang cánh lửa
Hãy bay đi! Con chim kêu trước cửa
Thêm một ngày xuân đến. Bình minh
Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh
Như hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhỏ
Treo trước mắt của loài người ta đó:
Hòa bình
ấm no
Cho
Con người
Sung sướng
Tự do
“Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” đang “khai môn” cuộc đời. Nó chờ đợi ngày mới:
Ánh sáng nơi nơi tỏa rạng
Vang ca sự sống ngời sinh./. Một giá trị nhân văn trong “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” đáng ghi nhận. Nó độc đáo.
KẾT: Giá trị nghệ thuật hay thẩm mỹ của trường ca “Ngày đang mở sáng” của Trần Anh Thái đã kết thúc một bản trường ca về cuộc chiến với từng số phận con người trước và sau chiến tranh. Đồng thời, nó mở ra một thi pháp mới cho văn học theo hai chiều hướng: Đổi mới cách viết tức phương pháp đã nói ở các phần trên và đổi mới tư tưởng. Một tác phẩm không tự trang bị cho mình một đôi cánh nhân văn thì nó sẽ mất tính thời gian và t ự đào mồ chôn mình. Thanh Thảo trong “Ta ngạt thở chờ bước chân em tới” (toquoc.gov.vn) nói thực lòng về những câu thờ trong trường ca này “Những câu thơ không còn yếu đuối, không hề yếu đuối. Và tôi hiểu: tất cả chúng tôi đã bước qua một thời kỳ khác, một anh hùng ca, một trường ca kiểu khác. Khác với chính chúng tôi, như 32 năm sau khác với 32 năm trước, dù sông Vệ hay Đình Cương vẫn còn. Nhưng ngay những dòng sông và ngọn núi cũng đã khác. Người làm thơ nào không có những lúc “ngạt thở chờ” những câu thơ tới. Không ai hình dung được gương mặt những câu thơ sẽ tới, và đó chính là bí mật của thơ ca, bí mật của nghệ thuật”. Dương Triều Minh cũng đã “cảm nhận về tính hiện đại qua một số hình ảnh mang tính biểu tượng, tượng trưng, ẩn dụ trong trường ca ‘Ngày đang mở sáng’ trong bài viết cùng tên. Người viết mới đã đành mà cũng cần có người biết nhìn cái mới đó. Thi ca luôn luôn có những người bạn tri âm là thế.
Thơ nói ít hiểu nhiều. Nói mà như không nói. Không nói như đã nói rồi. Người thông minh liếc qua là hiểu ý. Kẻ trung bình đọc kỹ cũng thông. Chỉ có kẻ chẳng cùng lòng mới không thông, không hiểu! Văn như óc. Thơ như tim. Tim có đập đưa máu lên óc thì óc mới tinh tường. Óc tinh tường mới vẽ đường nhịp tim đập không loạn. Tim chết trước. Óc chết sau. Cần nhau thế đó. Trường ca ở giữa óc và tim khi nó vừa sử dụng tinh túy của thi ca vừa hưởng thụ nét sắc bén của tự sự. Đó là tất cả những gì đã đang và sẽ có của bản trường ca “Ngày đang mở sáng”.
Tất nhiên, cũng theo quy luật của cuộc đời, của văn học, chẳng có cái gì tốt đẹp mà hoàn hảo. “Khúc Huyền ca” cũng thế.
B. NHẶT “THÓC” TRONG GẠO:
Nhặt thóc trong gạo hay nhổ cỏ ruộng được ví von dễ thương là công việc hằng ngày của người lao động chất xám. Nó chẳng thể đánh đồng với việc “vạch lá tìm sâu” theo nghĩa ”Lá có sâu, chim sâu mới bắt, lá xanh rì, chim nhặt cái chi? Con sâu cuống lá từ bi, việc gì chim nọ bắt đi đoạn đành!”. Câu trước công minh. Câu sau, lưu tình. Nhặt thóc thì khác. Không nhặt thì người ăn luôn cơm lẫn thóc. Ăn cơm gặp thóc móc họng là thế. Ruộng không nhổ cỏ, lúa lẫn cỏ dại, người bại mất mùa. Văn học cũng như một sàn gạo đầy thóc như cánh đồng đầy cỏ dại. Văn học không của riêng ai, nhặt thóc, nhổ cỏ thì ai cũng làm.
“Có khen rồi mới cho chê. Thương roi, ghét ngọt theo lề lối xưa”. Trường ca “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” của Trần Anh Thái lĩnh dăm ba cây roi cho đủ khen chê không mang tiếng “nhất bên trọng, nhất bên khinh”.
I. Câu cú:
1. Câu dài hay đủ ý thì cần tách:
Song song với nghệ thuật “phá vỡ cấu trúc ngữ pháp” mới hình thành, thường dẫn theo câu dài, khó hiểu. Do đó, ta cần dùng dấu chấm tách câu ngắt gọn hoặc thêm từ nối ý nếu muốn giữ câu dài.
– “Chúng tôi là cổ xưa hoang hoá bóng người ánh sáng tràn trề mặt đất”: Câu có cụm vị ngữ dài khó hiểu. Cần tách câu bằng dấu chấm câu đơn giản:
Chúng tôi là cổ xưa hoang hoá bóng người.
Ánh sáng tràn trề mặt đất.
Nếu muốn giữ nguyên, hãy cho thêm liên từ:“Chúng tôi là cổ xưa hoang hoá bóng người mang (đem) ánh sáng tràn trề mặt đất“.
– “Sáng sáng chim khuyên gõ cửa bình minh mẹ đứng ngây trước gương mặt thiên thần mỉm cười lặng lẽ” thành câu tách:
Sáng sáng, chim khuyên gõ cửa bình minh.
Mẹ đứng ngây trước gương thiên thần mỉm cười lặng lẽ.
Thêm dấu phẩy tách ý để giữ câu dài: “Sáng sáng chim khuyên gõ cửa bình minh, mẹ đứng ngây trước gương mặt thiên thần mỉm cười lặng lẽ.”
– “Con đường kiệt sức, chân bước mắt bầm, bình minh chết trong chùm mây bạc”.
Mỗi ý trong câu đứng riêng vững vàng, cần tách bằng dấu chấm:
“Con đường kiệt sức. Chân bước. Mắt bầm. Bình minh chết trong chùm mây bạc”.
– Câu: “Bạc mắt mùa màng, cát trắng lăm dăm mặt, bầu trời khoanh một vòng tròn trắng. Những hạt mầm nhao lên cơn khát” thành: “Bạc mắt mùa màng. Cát trắng lăm dăm. Bầu trời khoanh một vòng tròn trắng. Những hạt mầm nhao lên cơn khát”…
2. Câu tạo hình chưa chuẩn:
– Khúc I: Bình minh hé mở
Biển khuấy động mơ hồ
Sóng vang vọng toà lâu đài hình thù kỳ ảo.
Động từ “vang vọng” không thể là “kiến trúc sư” để xây “tòa lâu đài hình thù kỳ ảo” vì nó là từ chỉ tốc độ âm thanh. Âm thanh chỉ có thể tạo âm thanh chứ không thể tạo hình.
Chỉ cần hoán chuyển hai động từ trên hai câu:
Bình minh hé mở
Biển vang vọng mơ hồ
Sóng khuấy động thành tòa lâu đài hình thù kỳ ảo.
3. Đoạn, câu tối nghĩa:
a. Đoạn:
– Khúc IX: Chẳng biết tác giả muốn gởi gấm ý gì trong đoạn này:
Cánh rừng nhà sàn linh hồn ngọn đồi
Nâng cánh đàn chim rời tổ
Chưa có trật tự nào
Những bàn chân vương bùn đất.
b. Câu:
Khúc I:
– “Tôi mê man ngọn bùi nhùi huyền thoại sấp ngửa thớ cày chờ gieo mùa mới”: Chưa rõ nghĩa gì gọi là “ngọn bùi nhùi“?
– “những giấc mơ đêm đêm hổn hển mệt nhoài”. Tính từ “hổn hển” chỉ có thể đứng chung với một động từ chỉ trạng thái như “thở hổn hển”. Trong câu trên, dùng từ “hổn hển” về mặt cấu trúc ngữ pháp thì chưa đúng còn về nghĩa thì sắc thái biểu cảm giảm tính nghiêm túc của nội dung.
Cũng thế trong khúc VIII: “Ánh sáng nhô lên hổn hển“. Ánh sáng là danh từ trừu tượng chỉ cái mênh mông bao trùm. Động từ “nhô” chỉ có thể dùng với danh từ chỉ vật, sinh vật có hình thù như mặt trời nhô lên, mặt trăng nhô lên, con cá nhô lên… Còn ánh sáng thì chỉ kết hợp với động tính từ chỉ tính chất như “ánh sáng mờ mờ, ánh sáng lân tinh, ánh sáng loé lên, ánh sáng soi đường, ánh sáng tỏa rạng…”
Tính từ “hổn hển” dùng trong hai câu đều không chính xác và mất tính trong sáng của câu thơ.
– Khúc IV: “mẹ vẫn chờ em mong ngóng đêm dài”. Câu được hiểu “mẹ vẫn mong ngóng, chờ em trong đêm dài“. Nếu không, câu bị hiểu thành: em mong ngóng đêm dài và mẹ vẫn chờ em. Đêm dài nhằng, không ai mong ngóng có được cái đêm dằng dặc như thế cả!
4. Câu cần dấu phẩy tách ý:
Khi tôi hát gió trong nhà thắt ngạt
Lúc vui cười nước mắt mẹ nghẹn đêm
Và tôi ngủ mẹ ôm đêm thức
Sáng sáng tôi ra khỏi nhà mẹ run rẩy quay đi.
Câu không dấu phẩy có thể dùng trong văn nói. Văn viết nên dùng dấu phẩy để tách hai ý khác nhau trong một câu và để phân biệt thành phần trạng ngữ với cụm chủ vị. Câu trên thành:
Khi tôi hát, gió trong nhà thắt ngạt
Lúc vui cười, nước mắt mẹ nghẹn đêm.
Và tôi ngủ, mẹ ôm đêm thức
Sáng sáng, tôi ra khỏi nhà, mẹ run rẩy quay đi.
Câu thứ ba có thể dùng dấu chấm để tách thành hai câu: “Và tôi ngủ”. “Mẹ ôm đêm thức” (có thể thay liên từ và bằng “khi (lúc) tôi ngủ. Mẹ ôm đêm thức”. Câu thơ nghe nhẹ nhàng hơn dùng “và“). Tránh bớt liên từ và đứng đầu câu chừng nào hay chừng nấy.
II. Ý thơ và tạo hình chưa hợp lý:
– Khúc IV:
Chiếc khăn tay này
Đàn chim đang bay
Em hãy thả chúng lên
Và đừng e ngại.
Hai hình ảnh: Có một chiếc khăn tay (số ít) và có một đàn chim đang bay (số nhiều). “Em hãy thả chúng lên“? “Chúng” là số nhiều ứng với đàn chim nhưng đàn chim đang bay thì làm sao mà em thả? Còn chiếc khăn tay (“chiếc” không thể tương ứng với “chúng“). Ta chỉ có thể chọn một trong những động từ sau: “tung”, “quăng”, “ném”, “vứt”, “hất”, “thẩy” + với từ chuyển động lên.. Chiếc khăn mà thả thì nó rơi liền, con thuyền thả trên mương (lệ làng khi cúng đất) hoặc thả xuống sông hay xuống biển thì hợp.
Câu chuyển động từ thành: “Chiếc khăn tay này. Đàn chim đang bay. Em hãy tung lên cùng. Và đừng e ngại”. Nghĩa câu thơ sẽ có giá trị về chiếc khăn tay bay lên hoá cánh chim – biểu tượng của hòa bình – một ước mơ lớn nhất của nhân loại.
– Khúc X:
Vách núi dựng ầm ào thác đổ
Một tiếng chim côi cút rừng xa
Tiếng ống cóng gõ qua cơn đói
Thẳm vào cõi sâu!
Tiếng động “ầm áo thác đổ” (âm thanh tiếng động rất lớn, rất gần). Vì vậy, một tiếng chim côi cút rừng xa (có một tiếng chim, ít quá và không thể nghe trong tiếng thác đổ vì tiếng chim kêu rất xa). Hai âm thanh mộtt lớn một nhỏ đối lập nhau, tai người không thể vừa nghe gần ồn ào, vừa nghe xa nho nhỏ, ngoại trừ phép “truyền âm mật nhĩ” trong kiếm hiệp của Kim Dung hoặc có thuật… “Gọi nhau qua vách núi” của Thi Hoàng!!
III. Phân khúc còn vài chỗ nhập nhằng:
Trường ca “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” có XI khúc. Trong đó, những khúc được phân bố khác nhau về nội dung nhưng vẫn còn nhiều đoạn trong mỗi khúc có nội dung giống khúc khác. Cách trộn lẫn này sẽ khiến cho trường ca trùng lập về ý. Cách tốt nhất là chuyển hết những phân đoạn hay khúc có cùng nội dung về một khúc.
– Khúc I: Cảnh ruộng đồng, người lao động, người mẹ can đảm trong phân đoạn 1 (nên tách hai phân đoạn: một cho cánh đồng, hai cho mẹ.). Trong đoạn này sẽ dư ra 2 phân đoạn có cùng ý là 2 và 3 (nói về tuổi thơ của cậu bé với khát vọng con tàu cùng vui chung với bạn gái tuổi thơ). Hai phân đoạn này trùng với Khúc II dành nguyên cảnh cậu nhỏ và cô bạn cùng chơi trò chơi con tàu khát vọng nên cho chúng nhập một.
– Khúc III: Tìm về con đường tổ tiên. Khúc này đứng độc lập.
– Khúc IV là một trong vài khúc cô động nhất của trường ca với sự phân đoạn rõ ràng: Nội dung là cảnh một gia đình có thêm đứa con út chuẩn bị vào chiến trường. Khúc này được phân ra 4 đoạn: Đoạn 1 tả cảnh gia đình có chị, mẹ là những người cô phụ trong cuộc chiến và người con, em trai út ra đi. Đoạn 2 nói về cuộc chia tay âm thầm của cậu bé ra chiến trường với cô bạn gái. Kết thúc Khúc IV ở đây được rồi nhưng Khúc IV lại có thêm ba phân đoạn mà đại ý lại giống nhau: Hành quân gian khổ. Có thể nhập chung 3 phân đoạn này và chuyển nó vào Khúc V diễn tả trận đánh với sự chết chóc tang thương. Trước khi đụng trận thì có phân đoạn những người lính hành quân. Nếu không thì nên điều một Khúc V riêng cho 3 phân đoạn dư từ phân Khúc IV xuống.
– Khúc V: Tang thương của chiến tranh về những cái chết thù và bạn. Khúc này tương đối trọn vẹn nhưng cũng có hai câu về mẹ:“Mẹ ta giờ đã ngủ Nước mắt chảy khô đêm mưa rét?” thừa ra trong phân đoạn 4 nhưng lại trùng với Khúc VI. Vậy nên chuyển 2 câu thừa này vào khúc VI trong phân đoạn 1 nói về mẹ cô đơn trong căn nhà vắng chồng con.
– Khúc VI: Người lính trẻ mơ về mẹ, về cô bạn gái về cuộc chiến để lại vết thương vừa qua.
– Khúc VII: Có 6 phân đoạn trong đó 2 phân đoạn dành cho má Mừng cùng nội dung nên gộp lại một phân đoạn. Đoạn 3 dành cho người bạn du kích Tà Ôi (dành cho bạn thì lại ở Khúc VIII phân đoạn 5, 7 dành cho người chị góa chồng nhưng lại… thòng thêm phân đoạn người chị xuống Khúc VIII (đoạn 2 dành cho người chị chỉ mỗi một câu: “Ánh sáng cuối ngày rười rượi màn sương, chị tôi lẫn vào trời vào đất”).
– Khúc VIII: Nói về người bạn mỗi người một nơi sau chiến tranh ở phân đoạn 1, phân đoạn 2 nói về người chị lại trùng với 2 phân đoạn người chị trong Khúc VII.
Có thể đem phân đoạn 3/khúcVII và phân đoạn 1/khúc VIII gộp chung vào khúc VIII. Phân đoạn 3 và 4 nói về em trong khúc VIII lại trùng với phân đoạn IX nói về nhân vật em này của chàng lính thời hậu chiến. Vì vậy, nên cho 2 phân đoạn ấy nhập về Khúc IX để nội dung trọn vẹn hơn.
– Khúc X: Người lính gặp nhau sau chiến tranh lặp lại Khúc VII, đoạn 6 nói về em nên đẩy lên Khúc IX cho trọn vẹn.
– Khúc XI: Khúc ca thế giới hồi sinh.
Tuy nhiên, so với các trường ca khác còn nhập nhằn hơn ở trùng nội dung, “Khúc Huyền ca” với cách phân đoạn như thế là đạt yêu cầu về bố cục. Giá như, nó được phân bố kỹ hơn, nó sẽ có kết quả hơn cái đang có hiện nay.
IV. Chất thơ giọng và nội dung:
1.Chất giọng- chất thơ:
– Chất giọng: Là nét đặc thù riêng âm thanh để phân biệt sự khác nhau giữa ca sĩ với ca sĩ, và lựa chọn họ hát điệu thức gì hoặc phân biệt giữa nhạc sĩ này với nhạc sĩ nọ qua giai điệu. Ví dụ như chất giọng khàn khàn, phiêu du của Khánh Ly hợp với nhạc du ca, chiến tranh của Trịnh Công Sơn. Chất giọng tươi tắn Thanh Thảo hợp với điệu Hiphop. Chất giọng khàn Phương Thanh hợp với Pansorovi. Trong văn học dùng chất thơ như một phong cách riêng phân biệt tác giả này với tác giả nọ, nhóm thơ này với nhóm thơ nọ…
Với 2 trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời” và “Trên đường”, giọng thơ Trần Anh Thái đều đều, ít thay đổi. Thể thơ tự do chủ đạo trong 3 trường ca gây nên “điệp buồn trường ca”. Trường ca thứ 3 ra đời có giá trị “phủ nhận” hai trường ca cũ về chất giọng. Tuy nhiên, nếu đọc hết cả 3 trường ca, thì ta thấy có một số điểm trùng nhau.
2. Nội dung bị trùng: Hai trường ca trên có thêm những khúc, đoạn khác nhau về cuộc hành trình sang các nước Mỹ, Nhật. Chúng còn thêm gia đình có đầy đủ cha, mẹ, anh, chị, em, có thêm hình ảnh chiến tranh qua lớp học cùng cô giáo, ông canh đồng, người hàng xóm, người qua đường, chuyện hàng xóm, thêm bốn cô gái, có những người làng đón mừng người thắng trận về nhưng điểm giống nhau có thể thấy ở nội dung chính trùng lặp:
Dễ dàng nhận ra các nội dung trong 3 trường ca của Trần Anh Thái:
– Cảnh cánh đồng khô khan, cháy khát.
– Tìm dấu chân tổ tiên qua núi Yên Tử, đạo sĩ, tiên tri…
– Nhân vật người “Em” xuất hiện trong lòng chàng trai như nhau.
– Trộm dưa hồng, ký ức tuổi thơ của chàng lính.
– Cũng là giấc mơ, con thuyền cổ tích.
– Cũng mẹ với tro tàn.
– Cũng tìm mộ bạn
– Ánh sáng, niềm tin…
Những trường ca thời hậu chiến về chiến tranh đều đi về một điểm chung là “tổ tiên” thường “đụng hàng” nếu viết không khéo. Giá như Trần Anh Thái chỉ có mỗi “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng”, có lẽ, nhận định, đánh giá sẽ khác đi. Tuy nhiên, hai bản trường ca đã qua của Trần Anh Thái, có thể coi như là “hai bản nháp” cho trường ca thứ 3 này. Những gì cần để cho tác phẩm “sống” được, Trần Anh Thái đã bổ sung bằng thi pháp nghệ thuật độc đáo của mình vào trong bản trường ca sau và những gì dài dòng, những gì mang tính chất kể lể lê thê được tác giả nhanh chóng cắt bỏ. Thà “ăn ít mà no lâu” còn hơn ăn nhiều, đau bao tử.
Văn học không phải là bãi đổ rác và người viết văn phải là người nhặt rác mỗi ngày đi thay vì xả rác trên đường! Vậy thì dùng từ nhặt thóc nhẹ nhàng hay hơn nhặt rác vậy.
3. Giải quyết vấn về còn vướng víu:
– Những nhân vật như người mẹ, người chị chưa gắn bó nhau với tư cách mẹ-con trong gia đình: Chị đi đường chị, mẹ đi đường mẹ. Giữa hai người chưa có chỗ nào biểu thị thương yêu, đồng cảm với nhau.
– Nhân vật người mẹ và má Mừng được xây dựng giản dị, trân trọng nhưng khiếm khuyết là quá tải nỗi tang thương. Có thể gây… sốc về tâm lý cho thế hệ ra trận nếu có chiến tranh. Đương nhiên, hậu quả này có thể tránh được bằng giá trị tương phản của tác giả khi xây dựng hai mặt. Tức là trong cái khổ, cái tang thương, ánh sáng hy vọng vẫn rực lên dù ở một chân trời xa xôi thì vẫn có như cái vỗ vai xoa dịu nỗi đau âm thầm của nhân vật cũng như của xoa dịu vết thương lịch sử.
– Nhân vật người con gái đi vào con đường sa ngã còn yếu động cơ. Hai vợ chồng (chưa rõ là cô bé lấy người bạn năm xưa, là anh lính xưng tôi hay lấy người khác ở Hà Nội?) không thấy biểu hiện đổ vỡ, cùng nuôi mỗi một đứa con mà không nổi, trái với câu “đồng vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn”. Hãy cho nhân vật này một yếu tố nữa để đẩy cô ta vào con đường cùng (có thể là con bệnh, chồng bệnh vì thương tích chiến tranh hay vay mượn thiếu hụt… ). Người mẹ bỏ con ra đi không về trong tác phẩm là nhẫn tâm với bất cứ lý do nào. Tất nhiên, cách chọn con đường như nhân vật cô bé này còn nhân đạo hơn chị Dậu của Ngô Tất Tố bán luôn con để nuôi chồng bệnh. Mối quan hệ gia đình với người mẹ ngày nao “mong ngóng đêm dài” chưa được tiếp nối sau chiến tranh.
– Để tìm ra chân lý cuộc sống với khát vọng giấc mơ con tàu, bản trường ca “Khúc Huyền ca” của Trần Anh Thái vẫn chưa mở ra cho người đọc thấy mình sẽ phải làm gì tích cực hơn để đối phó với hiện tại thay vì cứ mãi miết vào tìm kiếm con đường tổ tiên. Kiếm được con đường khai mở rồi mình sẽ làm gì nữa đây? Giá trị tích cực mới chỉ dừng lại ở bước đầu định hướng nhưng chưa có kế hoạch triển khai và triển khai như thế nào, bản trường ca đã bỏ ngõ… Nó khắc khoải là vậy!
Có lẽ, nó chờ bước chạy tiếp sức cuối chặng đường đua khi khai sinh một trường ca thứ tư của Trần Anh Thái nói riêng hay của ai đó trong chúng ta nói chung? Vậy thì ta hãy cứ kiên nhẫn mà đợi mà chờ…như ta vẫn chờ một tình yêu đến muộn nhưng có hương thơm của thiên nhiên bốn mùa hoa lá!
Kết luận về thi pháp:
Muốn viết một bản trường có tính chất hoành tráng không phải là chuyện dễ dàng như người ta tưởng. Bởi vì trường ca vừa mang tính chất của thơ (trữ tình), tính dàn trải như loại tùy bút, tản mạn (thích chỗ nào, xoáy chỗ đó) nhưng lại mang chất kịch (có cột và gỡ nút), vừa chứa đựng nhân vật có đầy đủ tính cách như loại tự sự (tính cách phát triển theo nội dung tác phẩm).
Trường ca phải có chương, khúc, đoạn và mỗi phần, không thể lẫn lộn như tạp ký muốn viết gì thì viết. Trường ca cần sự trong sáng của một thể loại khó lấy lòng độc giả vì cách hành văn (suông sẻ hay gãy khúc?), đề tài (sâu sắc và hiện thực hay không?), thủ pháp vận dụng (độc đáo hay tầm thường?) và tư tưởng (nhân văn thật hay cải lương nhân văn?).
Đề tài để trường ca xông pha mưa gió đầy rẫy. Đường nó đi không có ánh sáng nào dẫn đường ngoài ánh sáng của mặt trời nhân loại. Nếu không, nó sẽ theo “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” vào thiên la địa võng.
ĐÁNH GIÁ CHUNG 2 MẶT NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT:
1. Nội dung: Đây là bản trường ca khai mở một giá trị nhân văn tích cực, nhất là về cách nhìn về người lính bên kia chiến tuyến trong tư cách con người. Nó không chỉ dừng lại chỉ mỗi nội dung đó mà nó còn đi thêm một bước để hàn gắn những vết thương lòng từ những mảnh đời rách nát vì chiến tranh và “cái ác sinh ra trong sự yếu hèn”. Mọi thế hệ có thể soi mình vào tấm gương sáng qua từng nhân vật để được thấy mình trong đó, là chị, là mẹ, là em, là người yêu để tìm chút nắng ấm của bình minh và nghe được tiếng chim véo von gọi người về hạnh phúc trong tương lai. Không đòi hỏi quyền lợi, không yêu sách công lao, không đối xử với nhau kiểu “người với người là chó sói“, con người dần dần hoàn thiện hơn trong cộng đồng “người yêu người sống để yêu nhau”. Vượt qua mọi đau thương, tự chữa lành vết thương và vươn tới khát vọng mới là sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam là cái đích đi tới của dân tộc. Không có gì quý hơn được làm người trong tư cách con người!
“Ngày đang mở sáng” có đầy đủ tư cách để đống dấu son vào văn học Việt Nam nói chung và thể trường ca nói riêng: lần đầu tiên có một tác phẩm văn học viết trên một tư tưởng thay đổi cách nhìn trực diện về một cuộc chiến đã đi qua 2/3 thế kỷ trên một tinh thần nhân văn không cải lương.
2. Nghệ thuật: Đây cũng là bản trường ca khai mở một hướng đi mới khi xây dựng những bức tranh mang tính cách như những thông điệp hòa bình, khát vọng tự do và mưu cầu hạnh phúc. Trong đó, các nhân vật, các ý tưởng, các giá trị tu từ, tính âm dương, cộng trừ tương phản rõ ràng mỗi phân đoạn, mỗi khúc ca.
Sự thành công của tác giả trên hai mặt nội dung (xây dựng nhân vật có tính giáo dục về nhân sinh quan lành mạnh, không ích kỷ và bon chen) và nghệ thuật (ý ẩn vào từ) chính là biết lựa chọn phương pháp sáng tác mới (tách hẳn cái tôi ra ngoài tác phẩm để lời bình luận, nhận xét dành cho độc giả, sử dụng hợp lý thơ ở ngoài lời). Cách sử dụng thể loại thơ có chọn lọc, không ôm đồm và không chuyển tải quá nội dung trong từng phân đoạn.
Nó thúc đẩy người yêu thích văn học và có trách nhiệm với đất nước ngàn năm văn vật này tìm kiếm chủ đề, tư tưởng khác hơn, là “quốc nạn” như tham nhũng, mại dâm hóa nông thôn tới thành phố tiến ra nước ngoài đánh mất truyền thống gìn giữ bản sắc dân tộc của tổ tiên, chất xám chảy rữa, đồng tiền trở lại tha hóa con người, sự phân cấp rõ ràng giàu và nghèo không minh bạch, nhu cầu tự do thông tin, nhu cầu tinh thần bình đẵng, tinh thần “chí công vô tư” công thưởng, tội phạt…
Có thể nói: Đây là tác phẩm mở đường một thi pháp sáng tác mới trong văn học Việt Nam hiện đại.
Chút suy nghĩ:
Trên tinh thần nhân văn của “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng“, người ta thấy được giá trị con người chỉ có khi con người tự biết khẳng định nhân cách của mình với người chung quanh và quý trọng thời gian. Những cuộc thi thơ, truyện ngắn, hoa hậu… diễn ra nhưng kết quả chất lượng chẳng là cái gì cụ thể có lợi cho đất nước, cho cuộc sống con người ngoài bề mặt có vẻ phồn thịnh, có vẻ đổi thay. Đã đến lúc, bài “Tiến quân ca” nên được viết lại vì không thể nào một dân tộc có truyền thống nhân văn mà “đường vinh quang xây” toàn “xác quân thù”?! Đã đến lúc, kết thúc có hậu nhưng không thiện chung của chuyện cổ tích Tấm Cám cần được viết lại theo một dị bản khác, nhân đạo hơn (bản cũ Tấm đích thân đi giết em mình và dì ghẻ). Đã đến lúc những cuốn sử (chân sử) phải được viết lại là lịch sử dân tộc Việt Nam chứ không phải riêng lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Đã đến lúc, nên nhìn lại hậu quả của việc miền Bắc thống trị miền Nam hàng mấy chục năm trời. Thử nghĩ: Nguyễn Văn Tường từ một kẻ có tội danh được thành lập, trên “phạm thượng khi quân” giết ba vua; dưới, “phản nòi” vì đã hợp tác với Pháp giết dân “tả đạo”; ngoài “bán nước” dâng đất cho Pháp trong cương vị ngang thủ tướng một nước nhưng chỉ qua mấy tờ giấy, mấy hội nghị sử học thì trở ngược tội danh, tội thành công, đứng ngang hàng với Nguyễn Trãi – một bậc đại anh hùng, đạo đức bậc nhất quốc gia, còn được đánh đồng lịch sử tạc “bia đá nghìn thu” (vấn đề trên, lịch sử sẽ dùng thanh gươm thần 4000 năm văn hiến mà chặt đứt tư tưởng nhân văn cải lương này) thì sao những người lính quốc gia anh em không thể đối diện với kẻ chiến thắng như một ván bài thông thường trong tư cách con người dù là người đã chết?
“Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” đã nói được tiếng lòng của những người đã bỏ mình vinh quang trên chiến trường vì trách nhiệm núi sông, vì danh dự và bổn phận làm trai đáp đền sông núi dù ở bất kỳ thời đại nào, chế độ nào. Tư cách con người là trên hết khi bình phẩm, thẩm định giá trị một con người. “Không có một mặt trời cho một mặt trời”, không có gì bằng cách hiểu theo Nguyễn Trãi “làm lật thuyền mới biết sức dân như nước”. Trong bài “Nghệ thuật lãnh đạo quân sự trong chiến tranh nhân dân” (lanhdao.net) ghi rõ: “Bên cạnh chiến thắng, lịch sử những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam có ghi lại 3 lần thất bại: thất bại của An Dương Vương trước Triệu Đà; thất bại của Hồ Quý Ly trước nhà Minh, và thất bại của triều Nguyễn trước thực dân Pháp. Dù không có chung bối cảnh lịch sử, nhưng cả 3 thất bại trên đều có chung một nguyên do. Nguyên do ấy xuất phát từ tầng lớp lãnh đạo của cuộc kháng chiến: để mất lòng dân” (vietnam.net). Với cuộc chiến đã qua, nửa phần dân của đất nước như miền Nam nói riêng thì sự “mất lòng dân” không tránh khỏi đã từ lâu. Gây lại niềm tin và xoa dịu vết thương lịch sử này ít ra, văn học cũng có một phần công đức. Công đức ấy bắt đầu từ “Khúc Huyền ca” khắc khoải này.
Với “Mật mã Da Vinci” (The Da Vinci code), thế giới công giáo Kitô đã được Dan Brown “giải mã” và được đạo diễn Ron Howard dựng thành phim. “Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” đầy chất người của Trần Anh Thái cũng đã giải mã xong hìng bóng mặt trời tư tưởng nào là chính trong cuộc chiến, cũng đang chờ đạo diễn thực sự có tài dàn dựng và có một tấm lòng hướng thiện. Bản thân XI ca khúc này có “kết cấu một cách chồng hiện gần với thủ pháp điện ảnh”như Dương Kiều Minh đã nhìn ra trong “Nhà thơ Trần Anh Thái và bản trường ca mới”. Nó cũng chung một ý như một tấm lòng “Nguyện cầu ban mai” của Mai Văn Phấn trong trường ca ”Người cùng thời“.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta đã có quá nhiều cái xấu, cái ác thì đừng xây dựng nhân vật với ngần ấy ác độc, hư hỏng, xấu xa thảy vào văn học. Thắp đèn sáng để soi rọi chỗ tối. Lấy hạnh phúc để trám vào lỗ hỏng bất hạnh, lấy sự lương thiện để thay bằng sự độc ác. Mang hoa hồng thay thế những gai chông. Đó cũng là con đường phải vươn tới của văn học hiện đại nhân văn.
“Khúc Huyền ca – Ngày đang mở sáng” của Trần Anh Thái vẫn còn khắc khoải một ngày mai hướng về một tình yêu hy vọng là có thật trên đời “Nếu em không cùng đi hạnh phúc không đường đến”. Người viết xin mượn một thể tự do để kết thúc bản hòa âm còn nhiều cung bậc chưa hoàn hảo về khát vọng của “Ngày đang mở sáng” đang bên bờ khắc khoải hai từ “Hạnh phúc”: Hạnh phúc?
Là lúc ra đời trên đôi tay mẹ cha
Là nghe tiếng con cười cùng tiếng chim ca trong nắng sớm.
Là nụ hôn, là nỗi chờ mong thắc thỏm…
Là nhắm mắt cuối đời còn có một nụ cười mãn nguyện nở trên môi.
Hạnh phúc trần đời vốn phải có đôi
Điều ngược lại, ôi! quả là bất hạnh!
Thì em ơi!
Trên đường đi, đôi tay siêng nhặt nhạnh
Mảnh vụn nụ cười, thế giới đã đánh rơi.
Một chiếc lá khi cần lời chia xẻ
Trong cuộc đời, có lúc nếm cô đơn.
Nhìn màu tóc, biết thời gian dài ngắn
Mượn nụ cười che chắn nỗi chia ly
Thì em ơi! Ngần ngại để làm chi
Điều hạnh phúc vốn bên đời giản dị
Được làm người sau chót tiễn người đi…
Hạnh phúc vốn diệu kỳ qua xương máu
Được làm người cuối xuống với thương đau!
Trần Anh Thái kết thúc bản trường ca như một lời trăn trối:
Tôi đã viết như tôi đã chết
Nước mắt tạc vào gió thổi ngàn sau.
Xin được viết lại lời hai câu thơ kết thúc cuối cùng bản trường ca “Ngày đang mở sáng” như một nghĩa cử động viên cho Trần Anh Thái, cho những người yêu thương văn học và còn lại cho… mình:
Tôi đã viết bằng trái tim rớm máu
Xin gió đừng mang nước mắt tạc nghìn sau!
Qua thương đau là “ngày đang mở sáng“! Hãy cứ tin như một phép nhiệm màu!./.
TƯ LIỆU THAM KHẢO CÓ SỬ DỤNG:
I. Trường ca:
1. Ngày đang mở sáng. (Trần Anh Thái, nxbhnv-2007).
2. Trên đường (Trần Anh Thái, nxbhnv-2004).
3. Đổ bóng xuống mặt trời. (Trần Anh Thái, nxbhnv-2005).
4. Trầm tích (Hoàng Trần Cương, nxbqđnd-1989).
5. Trường ca sư đoàn (Nguyễn Đức Mậu, cinet.gov.vn).
6. Khúc hát người anh hùng (Trần Đăng Khoa, annonymous.online.fr).
7. Trường ca biển (Hữu Thỉnh, anonymous.online.fr).
8. Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh, anonymous.online.fr).
9. Sông Dinh mùa trăng khuyết (Giang Nam, nxbqđnd-1998).
10. Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm, annonymous.online.fr).
11. Những người đi tới biển (Thanh Thảo, binhthuantoday.com; thinhanquangngai.com).
12. Người cùng thời (Mai Văn Phấn, maivanphan.com).
13. The Gardener (Hiến dâng-Rabindranath Tagore -terebess.hu).
14. Bài ca chim Chơrao (Thu Bồn, annonymous.online.fr).
15. Những người trên cửa biển (Văn Cao, annonymous.online.fr).
16. Sóng Côn Đảo (Anh Ngọc, annonymous.online.fr).
17. Trừng phạt (Trần Đăng Khoa, annonymous.online.fr).
18. Những người đi tới biển (Thanh Thảo, annonymous.online.fr).
…
II. Thơ:
1. Giấc ngủ khuyết vầng trăng (Trần Chấn Uy, thơ, nxbvh-2005).
2. Bóng ai gió tạc (Thi Hoàng, nxbqđnd, 2001).
3. Thơ Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Anh Nông, Nguyễn Duy, Trần Dần, Tố Hữu, Thế Lữ, Xuân Diệu, Thu Bồn, Văn Cao, Lưu Quang Vũ, Phùng Khắc Bắc, Đồng Đức Bốn, Chử Văn Long, Hồ Thanh Quang, Võ Quê, Huy Thông, Ma Trường Nguyên, Thâm Tâm, Nguyễn Mỹ, Nhật Minh, Đoàn Phú Tứ, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Tô Hoàn, Nguyễn Anh Nông, Nguyễn Du, Thanh Nam, Trần Hoài Thư, Trần Mạnh Hảo, Vũ Hoàng Chương, Lê Đạt, Duyên Anh, Lưu Quang Vũ, Thế Lữ, Thi Hoàng, Nguyên Hồng, Trần Đăng Khoa, Hữu Thỉnh, Trần Chấn Uy, Trần Dần, Tô Hoàn, Vũ Hoàng Chương, Giang Nam, Ngô Thế Oanh, Nguyễn Ngọc Phú, Nguyễn Trọng Tạo…
4. 100 bài thơ hay nhất thế kỷ (myheartmoscow.wordpress.com)
5. 100 bài thơ chọn lọc thế kỷ 20. (nxbhnhv-2007).
III: Bài viết:
1. Thơ ca như một thứ tôn giáo (Trần Anh Thái, thoitre.com, evan.com.vn).
2. Người thường gặp (Trần Đăng Khoa, vanhoc.datviet.com.vn).
3. Ta ngạt thở chờ bước chân em tới (Thanh Thảo, toquoc.gov.vn).
4. Tôi viết trường ca Hàm Rồng (Từ Nguyên Tĩnh, vnweblogs.com).
5. Phê bình thơ với vấn đề đánh giá những hành động cách tân thơ hiện nay (Phan Huy Dũng, Văn học Việt Nam sau 1975, nxbgd -2006).
6. Mấy nhận xét về thể thơ trong thơ trữ tình Việt Nam 1975-2000 (Phạm Quốc Ca, sđd như trên).
7. Thơ Việt Nam sau 1975 – Diện mạo và khunh hướng phát triển (Nguyễn Đăng Điệp, sđd như trên).
8. Nhà thơ Trần Anh Thái và bản trường ca mới (Dương Triều Minh).
9. Chân dung và đối thoại 8 (Trần Đăng Khoa, annonymous.online.fr).
10. Trường ca “Trên đường”, một cuộc đổi mới thơ (Dương Triều Minh, evan.com.vn).
11. Giá trị đích thực của thơ: Sự trong trẻo (Trần Ninh Hồ, tuoitre.com.vn).
12. Giữ gìn tiếng Việt trong sáng theo gương Hồ Chí Minh (Minh Huệ-Báo văn nghệ, cinet.gov.vn).
13. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (Đan Tâm, nhandan.com.vn).
14. Bài hát “Đưa cơm cho mẹ đi cày” đạo ý thơ? (Vn.Media.com, Hoa Mai-Tiền phong).
15. Thời bao cấp và tác động của nó lên con người (Vương Trí Nhàn saigontimes.com).
16. Đoản ca về trường ca (Chu Văn Sơn, maivanphan.com).
17. Nghệ thuật lãnh đạo quân sự trong chiến tranh nhân dân (lanhdao.net, vietnam.net)
18. MeKong, “Hòa bình vang tiếng súng” (vietnam.ictglobal.net).
19. “Cảm nhận về tính hiện đại qua một số hình ảnh mang tính biểu tượng, tượng trưng, ẩn dụ trong trường ca ‘Ngày đang mở sáng’” (Dương Triều Minh).
IV: Lý luận văn học:
1. Trường ca, Tính cách, Tính dân tộc, Ngôn từ nghệ thuật, Chủ nghĩa hiện thực, Nhân vật trữ tình, Tiếp nhận thẩm mỹ– Lại Nguyên Ân (Từ điển văn học, bộ mới, nxbtg-2004).
2. Tính người, Tính tư tưởng, Chức năng văn học – Nguyễn Xuân Nam (nt).
3. Tính nhân dân, Tính khuynh hướng-Nguyễn Văn Hạnh (nt).
V: Nhạc:
Trịnh Công Sơn, PhạmDuy,TrầnTiến,TrầnThiệnThanh, Nhật Ngân,Trần Chung, Duy Mạnh, Ngô Thụy Miên, Ngọc Sơn, Tín Hương…
VI: Các web site: dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn, annony mous.online, khoahọc.com, angiang.gov.vn, baothanhhoa.com, cinet.gov.vn, dactrung.net, damau.org, damsan.vn, dantri.com, en.vikipedia.org, hoangtrancuong.vnweblogs.com, it.vikingpedia.org, maivanphan.com, nguyenhuuquy. vnweblogs.com, nguyenanhnong. vnweblogs.com, ninhhoa.com, nguyentinh.vnweblogs.com, nhacvangonline, picasso.fr, phongdiep.net, saigonmusic.net, talawas.org, toquoc.gov.vn, thoitre.com, thotanhinhthuc.org, trinhcongson.com, vanhocviet.net, vnthuquan.net, xuquang.com, tienve.org, suutap.com, viettribune.net, chungta.com, vnca.cand.com, evan.com.vn, vietnam.net, video.yahoo.com, myopera.com; embracel.bogsome.com; vi.wkippedia.org; tapthoth.tripod.com; embracel.blogsome.com; blog.360.yahoo.com… vietnam.ictglobal.net…
Xin chân thành cám ơn.
Tháng 11/20/2007
Ngọc Thiên Hoa
(“Nhìn lại bến bờ 1“, Nxb HNV – 2008).
[yourchannel user=”CNN” search=”Lý luận văn học”]