TRUYỆN NGẮN

SÁT THỦ TRONG TRUYỀN THUYẾT

Truyện ngắn Sát thủ trong truyền thuyết

Sở cảnh sát

Andrew dù đang bị đau đầu ghê gớm, nhưng anh vẫn cố gắng gọi cho vợ. “Sarah, anh xin lỗi. Anh không thể đi nghỉ mát cùng em được. Anh phải trở về gấp vì có vụ án. Em cứ đi nghỉ mát một mình, đừng chờ anh nhé. Anh sẽ bù lại cho em một tuần trăng mật khác, yêu em.” Andrew thở dài. “Tha hồ cho cô ấy hờn giận.”

“Anh làm em lo qúa,” Sarah hoảng. “Nếu có án mạng, tức hung thủ vẫn còn quanh quẩn đâu đó thật nguy hiểm cho anh.”

“Đừng sợ, em yêu,” Andrew cười trấn an vợ. “Anh sẽ về nhà an toàn sau khi vụ án kết thúc. Thông cảm cho anh nhé. OK?” Chờ cho vợ tắt phôn, Andrew sầm mặt xuống. Những án mạng gần đây thật không thể tưởng. Các nạn nhân đều bị một quái vật bấu đứt cổ chết một cách ghê rợn tại một nghĩa trang ngoại ô lâu đời cách thành phố anh chỉ 5 miles.

Anh gọi cho Patrick. “Cậu đang làm gì đó?”.

“Chẳng làm gì sao?” Patrick trả lời. “Cậu nghĩ mình rảnh rỗi lắm sao? Cậu chẳng đang nghỉ mát là gì?”.

“Đừng đùa. Tớ bị sếp lôi về hôm qua,” Andrew chợt hạ giọng. “Có tin tức gì không?”.

“Không có,” Patrick gầm gừ. “Cậu làm như mình tài thánh. Mới điều tra đã có manh mối ngay. Chẳng có đầu dây mối nhợ gì cả.”

“Vậy à. Mình nghĩ rằng cậu nên rời bỏ nghề đi thôi.”. Andrew vờ bực bội.

“Ha…a…a…,” Patrick phá lên cười. “Đừng thọt lét kiểu này. Khẩu phần bơ, sữa, và bánh mì của mình đều ở trong đó cả, Andrew.”

“Vậy sao vẫn không tìm ra manh mối gì?” Andrew mỉm cười. “Thành ngữ Việt Nam có nói là đừng há miệng chờ sung rụng”.

“Nói với cậu khác gì đem con mèo ra khỏi bao”, Patrick cười to. “Bắt đầu từ nạn nhân thứ nhất, Jacqueline Greece phải không?”.

“OK, sáng suốt. Bye.”. Andrew tắt phôn. Anh nghe lạnh xương sống khi nhìn thấy một bóng đen như mèo hay cọp lướt qua cửa sổ rất nhanh. Anh bật dậy chạy theo. “Không thấy gì cả. Lạ thật,” Anh lẩm bẩm. “Không lẽ là… ma?” Trở về phòng vi tính, Andrew so sánh các vết tích trên cổ các nạn nhân nhưng chẳng phát hiện điều gì mới mẻ. Trong khi đó, trong một căn hộ mới xây ngoại ô thành phố, Patrick cặm cụi với những điều tra mới của mình. Chặp sau, Patrick gọi cho Andrew.

“Mình thấy các nạn nhân đều bị dấu móng bấu đứt cuống họng. Phòng pháp y đã giám định họ bị cọp vồ, nhưng nghĩa trang từ lâu nay không hề có sự cố này. Hãy nhìn các tư thế chết của nạn nhân. Không thể cho là cọp vồ vì chẳng có sự biểu lộ kinh hãi nào trên nét mặt của các nạn nhân. Nếu ác thú xuất hiện trước mặt họ, ít ra, họ cũng phải phản ứng là bỏ chạy hay dịch chuyển vài bước chân chứ?”

“Tớ chờ cậu ở nghĩa trang.” Andrew đề nghị với Patrick và không chờ anh ta ừ hử, anh khóa cửa và lên xe chạy đi. “Không có Sarah ở nhà càng hay. Cô ấy không phải sợ hãi điều gì.”

Nghĩa trang ngoại ô.

Andrew đậu xe sát nghĩa trang. Anh đi bộ vài bước chung quanh bãi đất vừa xảy ra 3 án mạng. Patrick cũng vừa tới. Họ quan sát hiện trường lần thứ hai.

“Cậu có lý,” Andrew nói với Patrick, anh chỉ tay vào đám cỏ còn đang ngủ yên. “Không có một chút gì gọi là xô xát giữa người và vật. Sau một trận tuyết đổ dữ dội rồi tuyết tan, cậu thấy những đám cỏ xung quanh còn nằm rạp. Chúng ngủ ngon chưa từng có đấy mà.”

“Hiểu rồi, Andrew,” Patrick gật gù. “Nạn nhân không hề chống cự và sát thủ cứ việc lần lượt bấu cổ họ tại chỗ. Không thể nói nạn nhân không bị thuốc mê chứ?”

“Chúng ta chẳng nên bỏ ra ngoài giả thuyết ấy,” Andrew thận trọng. “Những người này đều là đàn ông trung niên khỏe mạnh. Không thể nói rằng họ bị một lúc 3 con cọp hay mèo bấu cổ mà không phản ứng nào.”

“Những nạn nhân này có 2 người ở tiểu bang khác và 1 người là dân cư ngụ ở đây. Họ chẳng có quan hệ gì với nhau theo điều tra.” Patrich vừa nói vừa soi đèn vào tấm bia ngôi mộ. “Không tin được là họ đã cùng đi với nhau tới thăm viếng mộ một người và bị chết cùng một thời điểm. Người chết và sống có liên quan gì với nhau? Thật kỳ quái.”

“Không chừng họ cùng có ân oán gì với… cọp hay mèo ma?” Andrew đùa, “Mình quên nói với cậu, hồi nãy, mình đã thấy một bóng đen như con mèo hay cọp lao ngang qua cửa sổ nhà mình.”

“Vậy sao?” Patrick ngạc nhiên. “Cậu không có phản ứng gì à?”

“Có, nhưng chẳng thấy gì nữa”. Andrew cười trừ.

“Lạ thật, mình chẳng tin cọp, mèo ma nào bấu cổ ba người mà mình nghĩ tới một chuyện khác ngoài hành tinh.” Patrick đùa.

“Được rồi Patrick,” Andrew ngắt lời. “đừng dệt chuyện khoa học giả tưởng ở đây.”

“Hừ ừ… ùmùmừừ…”. Tiếng cười gầm gừ dễ sợ vang lên bên tai Andrew.

“Patrick, cậu điên à. Cười gì như quái thú thế.” Andrew quạu.

“Mình có cười bao giờ!” Patrick trả lời. “Không phải cậu đã cười khi nói mình dệt chuyện khoa học giả tưởng à?”

“Không,” Andrew nghe gáy mình lạnh toát. Anh vừa thấy bóng đen như con mèo lớn lại băng qua mặt mình. Anh đánh rớt cây đèn pin trong khi Patrick thò tay vào bao súng. Tuy nhiên, bóng đen đã biến mất trong nghĩa trang. Andrew và Patrick nhìn nhau như cố không tin có hiện tượng ma quái vừa rồi.

“Không lẽ đây là khu có ma như các nhà đi bắt ma trên tivi 277 đã chứng minh?”, Patrick nói chậm. “Thật ra, chỉ là con mèo hoang.”

“Có lẽ,” Andrew gật gù. “Những ngôi trường ma như Huntingdon College hay nhà ma Gaineswood trong Demopoli ở Alabama hoặc các ngôi nhà ma nổi tiếng trên khắp thế giới khiến ai nghe cũng lạnh gáy. Nghĩa trang người chết, có ma, chẳng có gì lạ nhưng ma động vật ở đây, có lẽ hiếm thấy.”

“Người dưới mộ này cùng nạn nhân ắt có ân oán nói như phim Trung Quốc, cậu nhỉ?” Andrew lại đùa. “Sao ta không coi thử coi người dưới mộ là người hay thú đây?”

“Ừ nhỉ,” Patrick soi đèn pin vào bia mộ vì trời âm u qúa. Những dòng chữ lờ mờ hiện ra. Natalie Marsh. 1970 – 1990. Anh kêu lên. “Là phụ nữ. Không, là 1 cô gái rất trẻ.”

“Phải bắt đầu từ người chết dưới mộ này.” Andrew thích thú với chi tiết trên.

“OK, mình đi về. Ở lại coi chừng thành nạn nhân.” Patrick nửa thật, nửa đùa. Họ lên xe. Con mèo hoang cũng biến mất.

Natalie Marsh?

Hồ sơ cá nhân của Natalie Marsh không ghi rõ thêm gì ngoài những điều mà Andrew và Patrick đã biết. Nó vắn tắt đến nỗi Andrew phải nhăn mặt. “Thật vô lý. Một cô gái mới 20 tuổi mà không có thân nhân. Chỉ ghi mỗi câu gái giang hồ chết vì bạo bệnh.”

“Hồ sơ tồi tệ. Mình thấy thật ghét những con mèo mập,” Patrick vừa càu nhàu vừa trả hồ sơ lại cho phòng hành chánh. “Không thể moi được gì từ hồ sơ của cô gái được cho là giang hồ chết trẻ.”

“Cực nhọc cho cậu nữa rồi.” Andrew nhìn Patrick.

“Nghĩa là sao?” Patrick ngơ ngác.

“Đến chỗ trọ của cô ta từ 20 năm về trước, may ra có manh mối gì?” Andrew gợi ý.

“20 năm về trước? Cầu may hay cầu mưa đây?” Patrick chán nản. “Mình không tin có manh mối gì đâu!”

“Thử coi,” Andrew vỗ vai bạn. “Mình đi với cậu.”

“OK,” Patrick uể oải gật đầu. Anh nói bằng giọng làm như có vẻ bị miễn cưỡng. “Mèo con bắt chuột cống vậy.”

Andrew cười. Anh mở phôn gọi cho cô bạn đồng nghiệp Kaela. “Em nhớ tới canh chừng ở nghĩa trang. Nếu có ai lui tới chỗ bia mộ có án mạng, lập tức mời về văn phòng cảnh sát ngay nhé”.

Trong khi Andrew và Patrich tìm mọi cách moi cho ra lý lịch của Natalie, ở ngôi mộ xảy ra án mạng có một người trùm mũ ấm kín đầu, đội mưa đến đặt trên mộ người con gái xấu số một bó hoa hồng. Người ấy không ngồi lại mà đi ngay. Chiếc xe màu đen của người trùm mặt được xe màu trắng của cảnh sát do Kaela lái, quay đèn. Khu nghĩa trang chìm vào âm u của một ngày ảm đạm bởi thời tiết mùa đông đang bắt đầu đổ trận tuyết lớn trong lịch sử từ 40 năm qua.

Chung cư ngoại ô

Người chủ căn hộ cho thuê cố giữ bình tĩnh khi Andrew chìa thẻ cảnh sát. “Chào ông Justin Christofferson. Xin ông vui lòng cho biết ông làm chủ dãy nhà này bao lâu?”

“Tôi không thể giúp gì được cho các anh,” Ông ta ngập ngừng vài phút rồi tiếp. “Tôi làm chủ khu nhà này mười năm trở lại.”

“Ông có nhớ người chủ cũ những căn hộ này không?” Andrew nhã nhặn. “Tên ông ta là gì?”

“Cái này… ,” người chủ mới ngập ngừng. “Cái này tôi nhớ đấy. Tên ông ta là Jacqueline Grecco.”

“Jacqueline?” Andrew và Patrick đồng kêu lên. “Jacqueline Grecco?”

“Phải,”. Chủ căn hộ xác nhận. “Tên họ chính của ông ta.”

“Nhưng đó là tên phụ nữ mà.” Andrew ngạc nhiên.

“Tôi không biết.” Người đàn ông nhún vai. “Có thể ông ta là người chuyển hệ và có thể ông ta thích tên họ phụ nữ cũng nên.”

“Cám ơn ông.” Patrick ra hiệu cho Andrew để kết thúc câu chuyện. Họ đi ra xe.

“Thật là tức cười,” Andrew nói. “Patrick, cậu không nhìn ra câu chuyện càng ngày càng đi đâu ấy. Một người đàn ông có tên họ của phái nữ, làm chủ những căn hộ trong 10 năm rồi sang lại chủ mới và chuyển đi tiểu bang khác. Sau đó, buồn tình chuyện chi mà chạy về đây… chết ở nghĩa trang này?”

“Wao,” Patrick sáng mắt. “Cậu còn nhớ cái xác của Jacqueline Grecco có gì đặc biệt chứ?”.

Andrew ngớ người. Chặp sau, anh đưa tay lên đầu. “Trời ơi, nạn nhân để tóc dài và có sơn móng chân. Ô, là dạng…”.

“Phải,” Patrick cười. “Gần ra mối rồi.”

“Gì đấy Kaela?” Andrew trả lời phôn. “Được, anh về tới ngay, đừng báo cho sếp vội.” Quay sang Patrick, anh nói. “Chia hai hướng tìm nhé. Mình về trụ sở coi thử tay phù thủy nào dám không sợ… cọp mèo ma bấu cổ. Gặp nhau sau.”

“OK”. Patrich quay xe. Andrew giơ tay lần nữa. Môi anh mím chặt. Chút xíu nữa là cảnh sát chạy vượt cả đèn đỏ.

Người trùm đầu

Kaela không tin người trùm đầu đen kịt là một phụ nữ. “Bà không ngại khi chúng tôi mời bà về đồn cảnh sát chứ?” Kaela hỏi người trùm mặt. “Bà tên gì?”

Người trùm đầu ú ớ. Andrew về tới. Anh thất vọng khi biết người đàn bà bị… câm. Kaela thở dài nhìn Andrew. Anh đắn đo vài giây rồi hỏi. “Bà có thể cho chúng tôi biết bà và người dưới mộ này có bà con gì không?”

Người đàn bà lắc đầu.

“Tại sao bà tặng hoa cho người dưới mộ?” Andrew hỏi thêm với hy vọng bà ta cung cấp vài chi tiết mới, nhưng, người đàn bà lại ú ớ vì không nói được.

“Bà viết vào giấy nhé.” Kaela buột miệng. Bà lắc đầu. Andrew hỏi gì bà cũng lắc đầu khiến anh chán nản. “Cám ơn bà. Bà có thể ra về.”.

Khi chiếc xe màu đen của người trùm đầu chạy khuất, Andrew nhìn số xe như một thói quen, nhưng anh bỗng giật mình. “Kaela,” anh gọi giật Kaela bằng giọng hốt hoảng. “Kaela, em không thấy lạ kỳ ư?”

“Không,” Kaela thành thật. Cô ngạc nhiên. “Anh phát hiện ra cái gì phải không?”

“Phải, chắc chắn là bà có thể nói bằng tay hay bằng chân và nhất là miệng như mọi người. Tuy nhiên, bà cố tình… câm”. Andrew thở gấp.

“???” Kaela ngẩn ngơ. Andrew mỉm cười. “Đừng nhìn anh như thế. Em không thấy bà ta biết lái xe ư? Lái xe là phải đậu qua bằng viết và bằng thực hành.”

“Ồ, em hiểu rồi,” Kaela ngồi thẳng lưng lặi ngay. “Bà ta câm nhưng bà ta không điếc chút nào. Bằng lái của bà mang có tên Natalie Marsh?”

Andrew chắc lưỡi. “Chuyện gian lận trong trường hợp đặc biệt này có thể có nếu hai người giống hệt. Vậy, phiền em tới chỗ đầu nút này”. Andrew đưa số xe cho Kaela. Hiểu ý, Kaela cầm lấy. Cô chạy thẳng tới “Drive and Vehicle Services.” Khi cô báo cáo kết quả cho Andrew, anh gọi Patrick và cả ba hối hả tới nhà người đàn bà trùm đầu. Bà không ngạc nhiên lắm khi thấy Andrew, Kaela, và Patrick xuất hiện. Căn nhà bà chật hẹp, nhưng ngăn nắp khiến Andrew và Patrick không tin một người câm lười biếng trả lời như bà có thể dọn dẹp sạch sẽ như vậy. Andrew đưa tờ giấy từ nơi thi lái xe trước mặt cho bà. Người đàn bà không chút biểu hiện gì trên gương mặt, nhưng khi Andrew nhắc tới cái tên người chết là Natalie Marsh, bà rơm rớm nước mắt khiến Andrew cùng Patrick giật mình. “Bà nên nói thật cho lòng thanh thản chút ít.” Andrew nhẹ nhàng gợi ý.

Người đàn bà trùm đầu ngồi yên. Patrick và Kaela lấy bút giấy để sẵn sàng ghi chép. Andrew dịu lời. “Năm tháng sinh của bà trùng với bà Natalie Marsh. Bằng lái xe này là của bà ấy chứ không phải của bà. Bà có nỗi khổ tâm nào không thể nói được? Có phải vì bà xấu hổ vì có cô chị hay em gái từng… làm điếm?”

“Không phải,” người trùm khăn hét lớn khiến cả 3 người cảnh sát giật mình. Tay bà gõ xuống sàn và miệng kêu lên. “Nó chết vì bị 2 tên khốn nạn chủ bar hiếp dâm. Tôi trả thù cho nó. Chính tôi đã bấu cổ chúng cho tới chết. Bắt tôi đi!”.

Những bóng mèo lại lướt qua cửa sổ khiến 3 cảnh sát… chợn. Một chặp sau, Andrew, Kaela cùng Patrick nặng nề rời căn nhà có người đàn bà trùm khăn đã gần như hóa dại.

“Sao anh không bắt bà?”, Kaela khẽ hỏi Andrew. “Chính bà đã thú nhận rồi mà.”

“Em làm cảnh sát mà thật nông nổi,” Andrew quắc mắt nhìn Kaela. “Hễ người nào thú tội là có tội, là hung thủ, thử hỏi có những kẻ bị bức cung, bị ép nhận tội thì thế nào?”

“Andrew nói đúng, Kaela ạ,” Patrick đỡ lời. “Hai tay bà ta đâu có giống gì là móng cọp hay móng mèo mà bấu cổ người?”

“Còn nữa,” Andrew nhìn Kaela đang phụng phịu, anh dịu giọng. “Làm sao bà ta có thể đưa cả 3 người đàn ông ra nghĩa trang cùng một lúc? Nếu có thể, phải có người giúp bà.”

“Em xin lỗi,” Kaela nhìn ra chỗ khác. “Em không muốn theo vụ này nữa.”

“Giận lẫy phải không?” Andrew bực mình. “Em thật trẻ con. Bây giờ, chúng ta sẽ phải tới nhà chủ căn hộ mới.” Anh nói như ra lệnh cho Kaela và không cần bận tâm tới lời hờn lẫy của cô. Kaela không dám phản ứng. Cô líu ríu vào xe và giữ thái độ im lặng. Khi mọi người tới nơi, người quản lý ở đây báo rằng ông chủ đã vừa đi đâu. Linh tính có chuyện chẳng may, Andrew bảo Patrick. “Chúng ta tới nhà bà chị của Natalie gấp trước khi tay Justin tới.” Anh nói thêm.”Quay đèn ưu tiên may ra còn kịp.” 2 chiếc xe cảnh sát chìm quay đèn ưu tiên và tăng tốc hướng về khu nhà cũ ở ngoại ô. Những chiếc xe trên trục lộ một phen hoảng vì không biết có phải cảnh sát quay đèn rượt theo mình?

Tại nhà riêng của Andrew

Sarah về tới nhà sau một tuần lễ trăng mật một mình ở Florida. Cô viết được vài truyện ngắn đủ thể loại và coi như đó là phần thưởng khi không có Andrew cùng nghỉ. Andrew đã đi làm, nhưng anh đã mua một bình hoa hồng thật đẹp cho vợ mới cưới để mừng ngày cô trở về. Sarah như được an ủi. Cô gọi hỏi thăm mẹ. Cô nhớ mẹ cô từng đùa và cảnh báo con gái rằng nhà văn lấy chồng cảnh sát thì cơ hội viết tiểu thuyết sẽ rất lớn vì thường thường, những người cảnh sát an ninh điều tra hay FBI, họ hay có công tác đột xuất. Sarah phản đối, nhưng bây giờ cô lại thấy lời mẹ đúng. Cô nhặt tờ báo mà người bỏ báo thuê thường quẳng trước sân vào mỗi buổi sáng. Người láng giềng cũng nhặt 1 tờ. Ông ta chào Sarah và ông ồ lên khi thấy bìa hình ngoài tờ báo. “Bà Natalie đã chết rồi à. Thật tội nghiệp”.

“Ông biết bà ta ư?” Sarah hỏi. “Bà ta là ai?”

“Bà ta thường mua thức ăn cho 4 con mèo nhà bà tại cửa hàng tôi ấy mà,” người hàng xóm nói thêm. “những con mèo nhà bà có khi cũng trên 15 – 16 năm cũng nên.”

“Wao, thật có con mèo sống thọ như thế à?” Sarah trầm trồ. Cô giật mình khi đọc tin ma quái. “Lại có chuyện cọp hay mèo ma vào nhà bấu cổ người à. Kinh khủng qúa!”. Sarah tái mặt. Người hàng xóm không trả lời mà ông chỉ giơ tay chào cô vì ông đang nhận một cuộc gọi từ… cảnh sát.

Nghĩa trang ngoại ô

Kaela mua hoa hồng. Cô làm theo lời dặn của Andrew. Andrew làm theo lời dặn của người đàn bà trùm mặt. Đám chết của bà không có ai đưa đám ngoài những người cảnh sát. Bên cạnh ngôi mộ của Natalie Marsh là mộ mới của Jules Marsh. Họ là 2 chị em sinh đôi. Bên cạnh hai ngôi mộ còn có thêm mộ của 3 con mèo yêu qúy của bà Jules. Kaela nói nhỏ. “Anh có phải “Thật không ngờ chỉ mới 1 ngày mà mình đã thành kẻ… sát nhân.” Andrew nghẹn giọng với Patrich.

“Sao cậu lại nói như thế?” Patrick ngạc nhiên.

“Mình đã hỏi bà ấy qúa nhiều điều, cậu không thấy sao?”

“Nhưng bà ấy có nói hết đâu! Bà chết vì cọp hay mèo bấu cổ ấy thôi!”.

“Cậu nghĩ đi đâu? Sếp ra lệnh giết những con mèo của bà vì nghi ngờ chúng là thủ phạm. Thật điên rồ.”

“Cách đó là tốt nhất. Nếu không, thêm vài người là nạn nhân. Trừ phi…” Patrick lấp lửng.

“Trừ phi gì?” Andrew nhìn Patrich bằng cặp mắt buồn bực vì anh cảm thấy mình bất lực.

“Trừ phi chúng ta trở lại căn nhà bà Jules”, Patrick qủa quyết. “Mình tin rằng ở đó, sẽ có vài chi tiết sót lại chưa được kiểm tra”.

“OK”. Andrew gật đầu. Anh nhìn Kaela. Cô cũng đang nhìn anh. Anh nói. “Chúng ta đi. Hy vọng người chết có linh hồn.”

Kaela nắm tay Andrew. Cô quên phắc là Andrew vừa mới cưới vợ. Nhìn hai người như thế, Patrick lắc đầu. Anh nói thầm. “Lẽ ra, họ cùng kết hôn mới phải.”

Sát thủ lộ diện

Andrew, Patrick và Kaela chia nhau tìm chút hy vọng về cái chết của bà Jacqueline trong căn nhà của bà. Tìm mãi chẳng có gì manh mối ngoài mấy lon thức ăn của mèo, những vật dụng gia đình hay của cải của bà, những người có nhiệm vụ đã lập biên bản và đưa đi hết cả.

“Ta về thôi.” Patrick đề nghị. “Kiếm nữa cũng chỉ có bàn tủ.”

“Kaela, Patrick, ” Andrew gọi giật. “Hai người có nghe tiếng mèo kêu đâu đấy không?”

“Mèo nào? Không phải 3 con mèo đã được lệnh sếp cho xử rồi chăng?” Patrick ngao ngán.

“Patrick,” Andrew lớn giọng. “Cậu có nhớ ông chủ tiệm bán thức ăn cho chó mèo đã nói bà Sedlacek có 4 con mèo tất cả, nhưng chỉ có 3 con đã chết nghĩa là vẫn còn 1 con trong nhà này”, Andrew nói nhỏ với Kaela. “Em dùng giọng con gái để gọi con mèo đi”.

“Meow, meow”. Kaela làm theo nhưng chẳng có tiếng mèo đáp lại.

Patrick nhớ ra việc gì. Anh bảo nhỏ với Kaela. “Em thử dùng ngón tay như bà Jules gõ xuống nền cùng với tiếng meow xem”. Kaela làm theo. Ngay lập tức, cô nghe tiếng “meow” gần như hết hơi, yếu ớt vọng lên.

“Nhất định nhà có cái lỗ nhưng không biết chỗ nào?” Andrew mừng ra mặt.

“Hãy giở bỏ hết những tấm thảm hay dịch chuyển bàn ghế ra chỗ khác.” Patrick đề nghị. Anh dùng tay gõ xuống nền gỗ. Andrew thử các góc nhà. Nghe tiếng lạ từ góc tủ, Patrick và Andrew giở tủ đựng thức ăn. Anh không tin ở mắt mình. Một con mèo mun đang nằm cuộn trong lỗ hổng ở tường. Kaela nhẹ nhàng đem nó ra còn Andrew thì tìm thấy một hộp gỗ. Chiếc hộp được mở ra. Andrew cùng Patrick cẩn thận kiểm tra. Andrew ngẩn ngơ một chập rồi gọi Kaela. “Cho anh mượn hai bàn tay em.”

“Ơ?”. Kaela sửng sốt, nhưng cô chợt hiểu. Cả ba không tin trước mắt mình, kẻ sát thủ nằm trong chiếc hộp gỗ. Qúa mừng rỡ, Andrew ôm choàng lấy Kaela, anh hét lên. “Kaela! Sarah!”. Patrick mỉm cười. Anh ôm con mèo ra xe.

Truyền thuyết về người thành mèo

“Ngày xưa, có hai chị em sinh đôi sống đời côi cút trong một túp lều ở rừng xanh với 2 con mèo mun hoang dã rất đẹp. Một hôm, có 2 người thợ săn bị cọp vồ trọng thương, lê lếch tới túp lều của hai chị em nhà nọ cầu cứu. Động lòng trắc ẩn, hai chị em cứu họ. Một ngày nọ, người chị vào rừng kiếm trái cây. Khi cô trở về nhà thì phát hiện em gái mình đã bị 2 người thợ săn cưỡng hiếp tới chết. Qúa đổi thương tâm, người chị thề nguyền sẽ hóa thành mèo ma để trả thù. Người chị đã hóa thành mèo cùng 2 con mèo rừng rời bỏ túp lều trở về làng tìm kẻ thù. Đó là những kẻ có những vết xẹo mèo cào trên người. 2 mèo rừng dụ chúng vào rừng và thổi thuốc mê để mèo ma chị đã bấu cổ họng kẻ ác dâm cho tới chết rồi thiêu cháy. Sau đó, mèo ma chị… hoạn chúng. Một người thợ săn nhìn thấy qúa hoảng sợ nên vỡ tim mà chết. Trả thù xong, mèo ma chị cùng 2 con mèo về rừng hoang sống bên cạnh ngôi mộ của em gái cho tới ngày họ lần lượt qua đời. Hồn thiêng của người chị và 2 con mèo hóa thành mèo đen đêm đêm lượn lờ bên mộ em gái.

Một hoàng tử bị thất trận bị lạc vào khu rừng nọ. Ông ta thấy có ngôi mộ hoang. Động lòng trắc ẩn, ông ta hứa sẽ mang hài cốt người xấu số về chôn cất sau khi ông đánh thắng kẻ thù. Sau khi chiến thắng, ông cho dời ngôi mộ mới về gần hoàng cung. Hoàng tử lên ngôi báu. Ông nằm mơ thấy một cô gái rất xinh đẹp hiện ra cám ơn rồi biến thành Bạch Miêu. Giật mình tỉnh dậy, một con mèo trắng đang nằm trên giường. Vua mừng lắm. Từ đó, vua và Bạch Miêu quấn quít nhau không rời. Những bóng mèo hoang cũng không thấy lượn lờ trước ngôi mộ cũ. Họ chắc đã siêu thoát và đã lên thiên đường.”

Hậu truyền thuyết

Andrew cầm cuốn truyện mới toanh đọc một hơi rồi cười với vợ. ” Đúng là nhà văn nói láo. Cảnh sát chồng công khổ tìm thủ phạm thiếu điều bị vợ bỏ chứ nào có ông hoàng tử gì trong này. Trời à! Người bạn trai của cô chị là một tay “gay” nên khi bà chị nhờ ông ta giúp bỏ thuốc mê cho 2 tên ác thú Owen và Collin, ông ta đã… mê Collin nên muốn cứu ông này. Bà chị biết được nên thuốc ông Jules rồi bấu cổ chết luôn chứ. Dấu bấu cổ họng nạn nhân là đúng dấu móng mèo hoang mà bà chị để dài thật dài, mài thật bén rồi cắt ra. Khi bà ra tay, bà đeo chúng lên móng thật của bà chứ bà có biến thành mèo ma, mèo qủy gì đâu!”

“Ông xã đọc truyện hay đang đọc hồ sơ tội phạm vậy.” Sarah giật quyển sách từ tay chồng. “Cảnh sát chỉ có máu lạnh, nhìn đâu cũng tội phạm thì làm sao biết được có những điều kỳ diệu trong cổ tích hay truyền thuyết chứ.” Sarah nheo mắt nhìn chồng. “Thật ra, em muốn cho Kaela và Patrick thành ông vua và cô gái bạch miêu. Ở ngoài đời, ai không biết Andrew có vợ rồi còn… yêu Kaela thắm thiết!”

“My God!” Andrew kêu lên. “Em nói quái gở cái gì thế?”. Miệng nói to nhưng Andrew nghe lòng hoảng hốt. Anh không phải đã mượn bàn tay xinh xắn của Kaela để đeo mười móng mèo – sát thủ hay sao?

Đêm đó, Sarah đang ngủ ngon lành thì bị đánh thức bởi tiếng thét thất thanh của Andrew. “Đừng nghe! Đừng nghe! Đừng ừng ừng…!”

“Anh à! Anh à! Chuyện gì vậy?” Sarah hoảng hồn. Cô ôm chặt lấy Andrew. Andrew nắm chặt tay vợ. Anh ôm cô vào lòng. Anh vừa thấy trong mơ, Kaeka với 10 móng mèo sắc nhọn tự bấu vào cổ mình, nhưng anh không thể nào ngu ngốc mà kể chuyện ấy cho vợ nghe. “Không gì. Anh chỉ mơ chạy xe bậy bạ. Ngủ đi em.”

Sáng ra, Andrew đi làm sớm. Anh chạy bổ tới phòng làm việc của Kaela. Kaela đang cầm một cuốn sách. Cô nhìn anh bằng đôi mắt u buồn đầy ngạc nhiên. Cả hai không ai mở miệng. Andrew nhìn dòng tựa “The Legent of Cats” trong tay Kaela. Anh thở phào và yên tâm rời phòng làm việc của Kaela. Anh tìm Patrick kể lại giấc mơ. Họ cùng đi tới mộ của hai chị em bà Marsh.

“Cầu God phù hộ cho linh hồn 2 bà sớm về nước chúa”. Andrew làm dấu thánh giá. Patrik đổ xăng vào chiếc hộp gỗ có 10 móng mèo sát thủ. Andrew châm lửa. Họ nhìn ngọn lửa thiêu cháy cái hộp gỗ thành tro rồi mới chịu ra về. Patrick lặng thinh. Anh hiểu nỗi lòng của thằng bạn. Andrew đang nghĩ về truyền thuyết của loài mèo. Anh hy vọng rằng, những thiên thần hay ác qủy sẽ mãi ở trong truyền thuyết và không bao giờ bước ra trang sách nữa vì truyền thuyết mới chính là chỗ ẩn cư bất tử cho muôn loài./.

Tháng 2/15/1011

Ngọc Thiên Hoa

Related Articles

Back to top button