Site icon Ngọc Thiên Hoa

‘Nhớ Chùa’ : Một Chữ ‘Thiện’ Vô Bờ !

Phê bình Nhớ chùa Một chữ "Thiện" Vô bờ

NHỚ CHÙA
(Một trong những bài thơ bất hủ của cố HT Mãn Giác)

Từ thuở ra đi vắng bóng chùa
Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua
Trong tôi bừng dậy niềm chua xót
Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa

Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng …
Có con đường đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng

Có những cây mai sống trọn đời
Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi miệng mỉm cười

Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống mến yêu

Vì vậy làng tôi sống thái bình
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi thôn xóm
Xây dựng tương lai xứ sở mình

Tối đến dân quê đón gió lành
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh

Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao
Dân làng tắm gội lên chùa lễ
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào

Biết đến bao giờ trở lại quê
Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
Tang thương dù có bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê

Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông

(Thơ của HT Mãn Giác, sáng tác 1949)

I. Khổ thơ đầu: Nỗi lòng người xuất gia.

Từ thuở ra đi vắng bóng chùa
Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua
Trong tôi bừng dậy niềm chua xót
Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa

Phật pháp vô biên.

Lời thơ hướng Phật với người hữu duyên thì ”tương đắc, tương tri”. Thi nhân hướng về ”Bát nhã ba la mật” thì thi nhân thành ”Nhân – Thi”: Người làm thơ mang sắc diện nhân bản! Không lãng mạn! Không tràn giang! Không tô sắc! Không vẽ vời!

Bãn ngã nhân sinh bộc phát từ lúc tóc còn xanh. Duyên nhà Phật căn nguyên đã có từ thuở còn xanh tóc! Sóng không có gió làm sao thành cơn bão tố. Tâm không có thiện làm sao lòng phát tâm lành!

”Nhớ chùa” của Hoà thượng Thích Mãn Giác chỉ có thể được nhìn từ góc độ: Sắc sắc, không không với chữ ”Thiện” vô bờ đó!

”Người đi, ta nhớ con đò. Người về ta nhớ câu hò quê hương”.

Quê hương của thi ca lãng mạn thiên về trữ tình qua ẩn dụ tu từ. Quê hương của thi ca của sân Phật, cửa Chùa chỉ có chùa chiền và tiếng chuông chùa với lời kinh kệ ngày hai buổi! Không lãng mạn. Kinh Phật dạy chúng sinh nên hướng tâm về với điều lành. Thi ca Phật đưa người về với quê hương bằng tâm lành của Phật!

Tuổi xanh của Võ Viết Tín đã gắn liền với ngôi chùa quê hương. Chất thơ bộc lộ cũng thắm đầy tình yêu quê hương với ngôi chùa đầy kỷ niệm ở đoạn thơ đầu của bài ”Nhớ chùa”:

Từ thuở ra đi vắng bóng chùa
Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua
Hai câu đầu là một khái niệm về cuộc đời: ”Chuyện hơn thua”. Ở đời, con người sinh ra đã có sẵn những ”Tham. Sân. Si”. Đó là cội nguồn của tội lỗi! Hơn thua về tài sắc. Hơn thua về tiếng tăm. Hơn thua về lời lẽ. Hơn thua về thế thời! Người buôn bán hơn thua mà sinh lời. Kẻ cuồng tâm hơn thua mà có chức. Lòng từ bi chẳng hề có chữ ”hơn thua”. Vậy là lòng bình lặng. Thế là tâm không sóng quấy! Nhưng người hiểu chữ ”Nhịn” thì ít mà kẻ mù chữ ”Nhường” thì nhiều. ”Đa tri thức bất đoan tâm” ắt thành Tâm ác!

Trần Huyền Trang tiền kiếp là đứa bé mồ côi Trần Vỹ (Trần Huy) thả con cá ra sông vì lòng có chữ ”xót”: Là xót vật, xót người! Vật – Người cũng là một sinh mạng. Người cần không khí. Cá cần nước. Người biết xót. Cá há chẳng biết đau! Quyền sống của cây cỏ thực vật, động vật cũng là ngang nhau. Tại sao người ta mang chữ ”sát” mà giết tận, giết tiệt? Phạm vào ”Duy thức” của đời mất rồi!

Hiểu thấu cội nguồn của chữ ”Duy Thức”, Viết Tín chẳng còn là cậu bé họ Võ mà trở thành Tỳ Kheo Mãn Giác. Trần Vỹ xuất gia lúc tuổi mười ba. Viết Tín vào cửa Phật năm mười sáu. Trần Vỹ thụ giới năm hai mươi mốt tuổi, Viết Tín thành Tỳ Kheo Mãn Giác năm hai mươi! Trước sau gì họ cũng gặp nhau ở chữ ”Phật” với tâm lành.

Nhưng con người làm sao thoát được những cạm bẫy cuộc đời phủ vây cùng sinh và cùng diệt thì người xuất gia cũng nào có thoát khỏi những sợi dây ràng buộc cần phải có mới tồn tại: Là quê hương! Người đi tu vất bỏ ”Thất tình lục dục”. Thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ hoàng cung, từ bỏ vợ con để tu thành chánh quả. Chánh quả của Thích Ca còn nhiều chuyện cần bàn nhưng rõ ràng, Tỳ Kheo Mãn Giác đã không từ bỏ quê hương. Không có quê hương thì làm sao có mái chùa cho người tu hành để qua cái ải ”Luân hồi”, ”Giải thoát” trước khi nhập cõi ”Niết bàn”?

Như vậy, niềm ”xao xuyến” của Tỳ Kheo chính là cái xao xuyến ”động” mà ”tĩnh”. Người không biết xao xuyến thì sao gọi là Người. Phật chẳng chút biết xót xa thì sao gọi là Phật! Đoạn đầu đã nhá lên hào quang của trí tuệ ”Tam thế Phật” chính là trí tuệ của quá khứ, hiện tại và tương lai! Mối quan hệ dắt dây này chính là một chữ ”Yêu”. Yêu quê hương vì nơi đó là nơi ta đã được sinh ra, đã nuôi ta lớn khôn và đưa ta vào chốn thanh tịnh để đại độ chúng sinh!

Đáng phục thay cho một trái tim hiền dịu đập cùng với nhân loài! Hài hòa như một lời kinh cầu và ước mơ chân thiện mỹ:

Trong tôi bừng dậy niềm chua xót

Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa

”Cảnh xưa” của vị Tỳ Kheo hai mươi tuổi đang ”xao xuyến mơ” là những gì?

II. Sáu đoạn tiếp theo: Giải đáp về hồi ức của người mang tâm Phật:

1. Hai khổ thơ thứ ba và bốn: Miêu tả cảnh chùa qua hồi ức ”cảnh xưa”:

Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con đường đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng

Có những cây mai sống trọn đời
Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi miệng mỉm cười

Tỳ Kheo Mãn Giác đã vẽ nên bức tranh làng quê qua hồi ức. Làng quê của thi nhân trẻ tuổi này cũng như làng quê của những tâm hồn lai láng văn chương mà Quảng Thông trong ”Tiếng chuông chùa” – Tập san nghiên cứu Phật học đã xuống bút:

“Dù trăm năm ai quên lũy tre làng
Dù ngàn năm ai quên tiếng mẹ ru.

Lũy tre làng, lời mẹ ru, dù người ta có thể quên, quên vì sự lãng quên, quên trong những cuộc rong ruỗi kiếm tìm trong cuộc đời. Nhưng âm hưởng của lời ru, hình ảnh lũy tre làng sẽ còn mãi đó trong lòng người. Đó là những hình ảnh êm đềm, nhẹ nhàng sau những tháng năm miệt mài lao đao”.

Âm hưởng ”Lũy tre làng, lời mẹ ru… êm đềm, nhẹ nhàng” đó đã theo chân Huyền Không khắc khoải nhịp bước quay về nơi cố hương với ngôi chùa ”ngập nắng vàng”. Màu nắng của trí tuệ Phật học và màu vàng nhiệm màu thiên biến vạn hóa của thế giới tâm linh.

Quá khứ làng quê của Huyền Không trước năm 1949 cũng dần dần hiện lên hiền hòa, giản dị trong thơ với ”con đường đỏ”, ”hàng tre”, ”cây mai” . Những cảnh vật này chẳng vô hồn mà chúng như có cảm xúc. Thứ cảm xúc được truyền từ người hồi ức hiền lành: ”Có con đường đỏ chạy lang thang…”. Đường được nhân cách hóa qua con người. Con đường đến chính Đạo cũng thế: Lang thang… lang thang mãi… mới tìm được bến bờ.

Ta bắt gặp ”hàng tre” – biểu tượng mềm mại mà mạnh mẽ của đất nước ”gợi hồn sông núi”. Bỗng nhiên, thi nhân trẻ này cũng hòa nhập vào vườn thơ ca nhân loại yêu quê hương không phải chỉ qua ”từng trang sách vở” như Giang Nam mà còn phải mở đôi mắt, lấy trái tim của trí tuệ ”tâm tâm thức” mà nhìn…

Quê hương của Tế Hanh trong ”Nhớ con sông quê hương” xanh mướt ”nước gương trong soi tóc những hàng tre”. Tre của Tế Hanh là tre của tuổi xanh mượt mà như từng tiếng hát ngọt thầm. Còn ”Làng tôi” của Chung Quân thì dạt dào thơ mộng:
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh êm xuôi về Nam.
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau.
Bóng tre ru bên mấy hàng cau.
Đồng quê mơ màng!

Khúc ca “đồng quê mơ màng” với lũy tre xanh còn có Nguyễn Duy trong ”Tre Việt Nam”:
Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh…
Đây, “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới hiên ngang trên trận tuyến chống thù! Mượn tre nhớ quê hương. Nhờ tre nhớ thôn làng. Tre là chất liệu không bao giờ cạn kiệt trong thi ca và văn học cũng như là chứng nhân lịch sử Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc hay hóa thân vào cổ tích răng đời với ”cây tre trăm đốt”. Tre cũng là chất nhạc êm đềm trong lòng người nhạc sĩ: ”Làng tôi” của Văn Cao là làng quê xanh bóng tre nhưng nhiều đau thương vì giặc giã:
Làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung
Đời đang vui đồng quê yêu dấu bóng cau với con thuyền, một giòng sông.
Nhưng thôi rồi còn đâu quê nhà, ngày giặc Pháp tới làng triệt thôn.
Đường ngập bao xương máu tơi bời, đồng không nhà trống tan hoang…

Nhưng tiếng chuông của Văn Cao là tiếng chuông nhà thờ ngân lên thành những nốt nhạc. Tiếng chuông của Mãn Giác là tiếng chuông chùa ngân nga từ bãn ngã nhân sinh. Hai tiếng chuông hai sắc áo Đạo đời! Khác nhau ở tôn chỉ và mục đích thì đối nghịch nhau ngàn đời!

Người thơ nói chuyện thơ. Người văn viết chuyện văn. Người nhạc ca lời nhạc. Người võ thuật múa quyền võ thuật. Tre quê hương, tre làng đã thành một thứ tre ”cương nhu phối triển” trong Võ sư Nguyễn Văn Sen (vovinamus.com):
”Nếu vòng đạo thể trên huy hiệu là biểu tượng cho nguyên lý cương nhu phối triển về phần siêu nhiên để giải lý vũ trụ, thì cây tre lại là biểu tượng và thực thể chiêm nghiệm về nhân sinh quan của môn phái VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO.

Nói cách khác, nghiên cứu cây tre là nghiên cứu một yếu tính sống, một quần thể sống để từ đó định hướng cho một cuộc sống của người môn sinh VOVINAM VIỆT VÕ ÐẠO: sống hiến ích, giúp ích người khác sống và sống cho người khác. CÂY TRE là một hình ảnh thân quen mộc mạc trong sinh hoạt dân gian Việt Nam. Tre tuy thanh mãnh song gai góc, cường kiện, mang phẩm tính cương nhu và nhiều đặc tính đa năng đa dụng trong đời sống xã hội”.

Nhưng tre nhà Phật mới là thứ tre tổng hợp của văn, thơ, nhạc, họa và võ thuật… bởi vì tre của Mãn Giác đã ”gợi” được cái ”hồn dân tộc” mà Vũ Đình Liên từng xót xa: ”Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ?”. Vậy thì cái ”đắc” của từ ”gợi hồn dân tộc” của thi nhân Tỳ Kheo Mãn Giác chính là chỗ tóm hết được những chấm phá, những ý tưởng tuyệt vời về đất nước, quê hương, làng xóm.

Hồi ức là những trang quay lại bằng tâm tưởng, là sự nhắm mắt của cõi lòng lắng động trong Mãn Giác. Nhắm mắt không tìm về ”một thoáng hương xưa” như Phạm Đình Chương mà nhắm mắt là để mở lòng. Tâm có Tịnh thì lòng mới Thông. Đấy chính là nhãn quang của người tu hành. Quê hương năm 1949 sau khi Việt Minh cướp chính quyền thắng lợi, lập nên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì vẫn còn lắm cái nghèo: Đói nghèo của trước đó với hai triệu đồng bào chết đói năm 1945. Đói nghèo của sự tồn sinh và đói nghèo trí tuệ. Nhưng, cái nhìn của Mãn Giác thời hai mươi đã không chìm vào những hiện thực đọa đày. Người tâm Phật đã nhìn thấy sự biến thiên qua từng cảnh vật thiên nhiên: Thiên nhiên vẫn là hồn nhiên, chân chất và cái chính là sự bất tử của chúng: Người tu hành đắc đạo không hề thấy chữ ”Tàn”. Thiên nhiên cây cỏ, cảnh vật không có chữ ”Tử”. Sinh -Tử chỉ là phù du. ”Dục cùng sanh tử thọ. Khuất hóa độ xuân thu”. Phải chăng là ý niệm của người tâm Phật muốn thoát khỏi nẻo luân hồi thì chỉ còn cách hóa thân vào thiên nhiên với bốn mùa mưa nắng đi về?

Mái chùa của Mãn Giác thời niên thiếu cũng lặng lẽ theo thời cuộc: ”Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng”. Sự ”im lặng” của một chữ ”Thiền” có những biểu tượng tinh khiết, thanh cao của cây Tùng, cây Bách, cây Mai mà Nguyễn Trãi đã ví lòng. Chúng mãi ”mãi xanh tươi’, ”sống trọn đời” với ”hồn sông núi”. Giá trị của hai từ ”Bất tử” chính là ở đây. Chữ ”Từ Bi” cũng chỉ có ở nơi không thanh tịnh mà thanh tịnh vì lòng thanh tịnh tức tâm thanh! Câu chữ hồi ức cũng chạy về dưới chân ”đức Phật từ bi miệng mỉm cười”. Sự hài hòa cảnh sắc với từ tâm chính là cái bản ngã mà con người cần đạt tới để xua tan nỗi đau, chạy qua khó nghèo và làm giàu tri thức. Một sự ngộ giác đáng cho người ta ngưỡng mộ!

Vượt lên sự ngộ giác hòa nhập với thế giới cỏ cây thì thực tại vẫn là niềm thương nhớ vô biên, khởi nguyên của căn duyên nhà Phật: Nhớ chùa!

2. Bốn đoạn thơ tiếp theo: Tấm lòng hiền lương hướng Phật:

Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống mến yêu

Vì vậy làng tôi sống thái bình
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi thôn xóm
Xây dựng tương lai xứ sở mình

Tối đến dân quê đón gió lành
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh

Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao
Dân làng tắm gội lên chùa lễ
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào

Ta nghe như trong tiếng chuông chùa có hình ảnh những con người nhà quê lam lũ với cuộc sống ”sắn ngô gạo bắp” và tâm thức hiền lương không có chữ ”Hơn Thua” tranh quyền, đoạt lợi. Khi con người có được cõi lòng thanh tịnh, liêm khiết như thế thì đi đâu cũng có quê hương, ở đâu cũng có chữ Phật. Ngày thì có chữ ”Nhàn”. Đêm thì được chữ ”An”. Cuộc đời không lấy chữ ”đói nghèo” là huệ lụy! Nhiệm màu thay! Một tiếng kinh cầu là ngàn lời giải thoát. Một tràng tụng niệm thay thế khối ưu tư. Tâm sinh loạn tất tâm diệt loạn. Lòng nổi giông, lòng tất diệt giông! Giới cảnh đạt được như thế thì ngàn vàng cũng hóa hư không, bạc tiền cũng tan theo gió thổi!

Vào cửa Phật tức là:

Thân hòa cùng ở,

Miệng hòa không tranh cải,

Ý hòa đồng vui,

Giới luật hòa đồng giữ,

Hiểu biết hòa cùng giải,

Lợi hòa chia đồng.

Vào cửa Phật chính là quy y Tam Bảo. Đó là: ”Quy y Phật, không quy y Thiên, Thần, Quỷ, Vật” như Thích Thanh Từ (win.org) có giảng: “Quy y Pháp, không quy y ngoại đạo tà giáo”. “Quy y Tăng, không quy y bạn dữ nhóm ác”. Chúng ta đã chọn lựa những vị hiền đức nương theo, khiến đời mình về gần với đức hạnh. Bạn dữ nhóm ác đối với người biết đạo cần phải tránh xa. Bởi vì ‘gần mực thì đen gần đèn thì sáng’ hay ‘gần đồ tanh hôi mình bị hôi lây, gần vật thơm tho mình được thơm lây’. Vì thế chúng ta phải can đảm đi đúng đường của mình đã chọn, dù có bị khinh khi mạ lỵ, ta cũng cứ thế mà đi. Bởi vì chúng ta đâu phải là kẻ mù quáng, mà đành bỏ cái tốt gần cái xấu. Khẵng định lập trường rõ ràng là người có ý chí cương quyết. Nếu người tu hành mà thiếu ý chí nầy, dễ bị gió lung lay”.

Người học Phật là người biết kinh Phật. Phật tử không thể thiếu lời ”Kinh”. Tỳ Kheo không lặng thinh chữ ”Kệ”. Chùa chiền không thể vắng hồi chuông. Lời cầu nguyện làm sao quên tiếng mõ? Cho nên, chuông mõ là biểu tượng của chốn tu hành thanh tịnh và là nơi dung chứa những kẻ bỏ đồ đao, lập tâm thành Phật hay là nơi mở lòng cho Lan chôn cành Lan, cho Điệp vùi xác Bướm! Thế nhưng: Tâm có oan nghiệt thì dù có ở chùa nào thì lòng cũng tâm động cảnh trần gian! Ở nơi đâu cũng sầu tình lục dục! Ấy mới là khổ đau của nhân thế! Mượn hồi chuông, muợn tiếng mõ để quên đời là ý này!

Trong ”Nghi thức chuông mõ” (win.net), Phúc Trung có cắt nghĩa: ”Chuông luôn luôn ở bên tay trái của tượng Phật hay Bồ Tát, mõ bên tay phải. Nguời thỉnh chuông gọi là Duy na, người gõ mõ gọi là Duyệt chúng. Tiếng chuông phát ra âm thanh lắng động, đêm khuya nghe tiếng chuông lòng chúng ta sẽ lắng động, thanh thản, phiền não dường như tiêu tan. Bài kệ đọc khi nghe có tiếng chuông:

Văn chung thinh phiền não khinh,
Trí huệ trưởng Bồ đề sanh,
Ly Ðịa ngục xuất hỏa khanh
Nguyện thành Phật độ. chúng sanh
Án Dà Ra Ðế Da Ta Bà Ha (3 lần)

(Nghĩa là: Nguyện cho tiếng chuông nầy vang khắp nơi, ở Ðịa ngục u ám Thiết vi cũng được nghe, ở trần thế được thanh tịnh chứng quả, hết thảy chúng sanh đều thành bực chánh giác và bài kệ sau: Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ đi, trí tuệ tăng trưởng thêm, sanh tâm Bồ đề, rời khỏi địa ngục, không bị lửa địa ngục thiêu đốt, nguyện thành Phật để độ hết chúng sanh).

Khi ta hiểu vì sao Nguyễn Du trong truyện Kiều đã đem tiếng chuông chuyển thành ”tiếng chày nện sương” buồn thê thiết:

Sớm khuya lá bối phiến mây
Ngọn đèn khiêu nguyệt, tiếng chày nện sương.

Nhưng nhà thơ vĩ đại này đã để cho Thúy Kiều vào chùa tu hành mà chẳng thể nào đắc đạo chính vì Kiều tâm không yên, lòng không thể tĩnh như Thiền sư Nhất Hạnh trong ”Pháp môn thực tập’ (langmai.org):

Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe!
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm

Với Mãn Giác, vị thi nhân tuổi trẻ này cũng trải qua thử thách của sự nhận thức bằng tâm. Hồi ức rồi cũng qua. Thực tại mới nằm lại. Chúng gậm nhấm tâm hồn thi nhân. Kỷ niệm có đong đầy thì hiện tại mới thương vay. Khổ vậy đó. Ta hãy xem, thi nhân Huyền Không đã biến giải nỗi lòng này như thế nào qua hai đoạn thơ cuối cùng?

III. Hai đoạn cuối: Niềm ray rứt và mơ ước an lành:

Biết đến bao giờ trở lại quê
Phân vân lòng gửi nhớ nhung về
Tang thương dù có bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê

Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông

Lòng khắc khoải với tiếng chuông chùa vọng mãi thành nỗi ”nhớ lạ lùng”. Hiện thực trước mắt của thi nhân vẫn là: Xa quê, xa làng, xa chùa. Cảnh đất nước trong giai đoạn chung của lịch sử vẫn còn ”tang thương” trong điển tích ”Tang điền thương hải” (ruộng nương hóa biển xanh). Quách Tấn, tác giả ”Xứ trầm hương” nổi tiềng cũng có bài ”Nhớ chùa”:

Nhớ chùa lòng muốn lên thăm

Sườn non đã dốc, đá dăm lại nhiều

Lắng tai nghe tiếng chuông chiều

Mặt hồ lắng sóng, mây điều bay qua

Nhớ chùa của Quách Tấn là cái nhớ khó vượt qua bởi thiên nhiên tạo: ”Sườn non đã dốc, đá dăm lại nhiều”. Lòng người có phải do dự vì ngại núi, e sông?

Hóa ra, ngôi chùa cũng là nguồn cảm hứng của thi ca, âm nhạc! Là nơi mà ”hồn dân tộc” được ”chở che” bằng tấm lòng từ bi của Phật. Cửa chùa cũng nói lên được ”nếp sống muôn đời của tổ tông”. Đó là sự khẳng định Phật giáo đã có nguồn gốc từ Trung Hoa qua giáo phái ”Đại tông” và Phật giáo Việt Nam đã hơn mấy nghìn năm trải qua bao thăng trầm vẫn tiếp tục thể hiện sức sống mãnh liệt của nó. Kinh Bắc là cái nôi của nhà Phật. Chùa Một Cột biểu tượng của một nền Phật giáo chính thống Việt Nam song song cùng Nho Giáo trước khi Thiên chúa giáo nhập nội! Những ngôi chùa nghìn năm cổ kính đã là chứng nhân cho ”nếp sống muôn đời của tổ tông” với những câu ca dao, tục ngữ kêu gọi người người thương yêu nhau:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

hay:

Thương người như thể thương thân.

hoặc:

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy là khác giống nhưng chung một giàn.

cũng từ cái nền Phật giáo thấm nhuần tình nhân đạo mà ra. Những vị vua đời trước như Lý Công Uẩn đã hết lòng nâng niu truyền thống văn hóa mang đặc thù màu áo Phật pháp đầy tình nhân đạo bằng cách lập nhiều chùa chiền và xây dựng thánh miếu. Vua nhà Trần như Trần Nhân Tông, Trần Thái Tông bỏ cung son, phát nguyện, thụ giới theo Phật. Đạo Phật ngàn năm trước đó từ Ấn Độ mà đức Thích Ca đã sáng lập nên.
”Người Việt Nam đã kế thừa và phát huy được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn độ, nhưng vẫn mang bản sắc riêng của dân tộc. Sĩ Nhiếp là bậc hiền tài được nhân dân tôn trọng như Vua nên được gọi là Sĩ Vương đã thừa nhận điều nầy:

Nước Nam sông núi dáng thần linh

Văn hiến mở khai dạng Phật kinh

Thánh Mẫu quả nhiên sanh Thánh tử

Mưa lành nhuần tưới giúp dân sinh
(Trích sách đồng)

Những ngôi chùa cùng song song tồn tại với người tu hành. Người xa nhà nhớ nhà. Người ly hương nhớ quê. Người tu hành không nhớ chùa thì còn biết nhớ cái chi? Chùa chiền phải có sắc màu huyền diệu, tạo cho người cảm giác bình yên khiến cho người cảm thấy thiêng liêng mà cuối đầu thành tâm ngưỡng mộ.

Ngôi chùa của Chu Mạnh Trinh trong ”Thú Hương sơn” xa vời, kiểu cách quá thể:

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.

Chùa Trong của Nguyễn Nhược Pháp thì như sang trọng, quý phái:

Động thẳm bóng xanh ngời

Gấm thêu trần thạch nhủ

Ngọc nhuốm hương trầm rơi

(Chùa Hương, Võ Văn Tường, Huỳnh Như Phương, win.net)

Kiểu cách mà làm gì? Sang trọng để làm chi? Thơ của người tu hành thường ”Không bến hạn” lại khô khan nhưng thơ của Huyền Không thời hai mươi như ”Mây trắng thong dong” vẫn có chút ướt át của nắng ngập vàng, của con đường chạy dài theo kỷ niệm, của những hàng tre biết cùng gió nói dịu êm và tiếng chuông gợi nhớ quê hương biến ”không gian thành chiếc áo” nhiệm màu. Tràn ngập nắng và có mùi thơm của trầm hương, thơ Huyền Không với bài ”Nhớ chùa” coi như cho ta nếm chút ”Hương trần gian” khi làm ”Kẻ lữ hành đơn độc”.

Ngôi chùa của Huyền Không là ngôi chùa nào hay chỉ là một ngôi chùa trong tâm tưởng? Mười tuổi, Viết Tín đã được anh chị chú bác cho đi học ở chùa Thiên Minh – Huế. Nhưng ngôi chùa này giờ đây không biết có còn không? “Không” mà “Có”. “Có’’ mà “Không”. Cái “không” nằm trong cái “có” và cái “có” lại chẳng hiện thân. Miễn là trong Huyền Không, ngôi chùa là đỉnh cao của lòng từ bi, là phát quang của trí tuệ cứu nhân, độ thế. Còn hay mất? Tồn tại hay không tồn tại chẳng có gì phân vân! Lòng có chùa thì chùa ở trong lòng. Tâm có Phật thì Phật chứng trong tâm. Tiếng chuông chùa Mãn Giác gợi cho ta một ”Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế bất hủ:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Bản dịch hay nhất là bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:

Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ .
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Tiếng chuông Thiên Mụ hay chuông chùa Hàn San hoặc chuông Thiên Minh vẫn là những tiếng chuông báo cho người thức tỉnh trước thời gian vang trong không gian buồn man mác…

So sánh về giá trị thẩm mỹ trau chuốt của thi ca, thơ Huyền Không chỉ mới ở vòng thực tập nhưng vượt lên trên tất cả để tồn tại, để bất hủ, Huyền Không đã không uổng một kiếp hiến thân cho nhà Phật khi tìm ra chân lý sống cho đời: Hãy sống bẳng tấm lòng. Tấm lòng tự nhiên không cần trau chuốc vẫn sáng trong như ngọc, như hoa Ưu Đàm nghìn năm chỉ nở một lần. Tìm trong cái Không để cho Có và hoán chuyển cái Có thành Không mới chính là sự nhiệm màu của Phập pháp vô biên! Đó là sự thông minh mà một tôn giáo chính thống, hiện đại cần phải có như Tiến sĩ Hòa thượng Mã Lai Mahathera Dhammananda trong ”What is this religion?” (Thế nào là một tôn giáo?) đã viết: ”Every man must have a religion and that religion must be one which will appeal to the intellectual mind” (Mọi người buộc phải có một tôn giáo mà tôn giáo đó phải là một tôn giáo của trí thông minh).

Năm mươi tám năm sau, Huyền Không đã chứng minh cho ta thấy sự biến hóa diệu kỳ của Phật pháp. Ngài đắc đạo với hơn ba mươi lăm tác phẩm để đời mà bài thơ từ thời hai mươi này là một trong những điều kỳ diệu bất tử của Huyền Không
Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông
Mãn Giác đã… mãn nguyện khi về với đời. Ra đi hay trở về cũng chỉ là sự luân hồi của một kiếp con người! Dù sao đi nữa, Mãn Giác cũng vẫn là con người. Xác người thì phải trả về cát bụi và tâm linh mới là tồn tại như ”mây trắng thong dong…”. Tiếng chuông chùa ngân lên… Nỗi nhớ chùa trở về. Mùa thu kết thúc ở trên cây không còn bóng lá nhưng mái chùa ngày xưa và bây giờ ở nơi đâu của Huyền Không vẫn ngập tràn nắng vàng trí tuệ và chỗ che chở cho ”hồn dân tộc” thoát khỏi kiếp nạn thiên tai, nhân tai. Lời kinh cầu nguyện của Người “Peace, happiness, and salvation” (Bình an, hạnh phúc và cứu độ) chắc chắn là như thế!

”Nhớ chùa” bài thơ thất ngôn, chín khổ, không kiểu cách, mộc mạc như chân lý hiển nhiên, không dấu chấm phẩy như ”con đường đỏ chạy lang thang…” và người đến đích thì hiếm hoi mà kẻ còn nặng nợ ”ngũ giới” thì còn nhiều. Sự giác ngộ bằng tâm linh để thương cha, hiếu mẹ không biết đến bao giờ mới hạnh thông!

Mỗi chúng ta có sẵn một mái chùa. Song thân ta đấy chính là Phật trong chùa. Tìm ở đâu cho xa xôi vời vợi! Đó là một chữ ”THIỆN” vô bờ mà Huyền Không để lại cho ta!

Nam mô Mãn Giác siêu linh về miền cực lạc!

Tháng 10/15/06

Ngọc Thiên Hoa

(Thành tâm kính bái)

Tư liệu tham khảo có sử dụng:

1. ”Nhớ chùa”. Thơ HT Mãn Giác (quangduc.com).

2. ”Đường Huyền Tông” (vi.vikipedia.org)

3. ”Bước đầu học Phật” (Thích Thanh Từ, cusi.fee).

4. ”Nhớ chùa”. Thơ Quách Tấn

5. ”Chùa Hương” (Võ Văn Tường, Huỳnh Như Phương, win.net).

6. ”Nghi thức chuông mõ” (Phúc Trung, win.net).

7. ”Tiếng chuông chùa” (Quảng Thông, Tập san nghiên cứu Phật học

thuvienhoasen.org).

8. ”Làng tôi” (Văn Cao, vietnammusic.com).

9. ”Làng tôi” ( Chung Quân, vietnammusic.com).

10. ”Cương nhu phối triển…” (Nguyễn Văn Sen, vovinam.com).

11. ”Pháp môn thực tập” (Nhất Hạnh, langmai.org).

12. “Mục đích lối sống trong cuộc đời” (Thích Thông Lý – buddhismtoday.com).

13. “What Is This Religion?” (Ven. Dr. K. Sri Dhammananda – hinhdongphatgiao.com, Thích Nguyên Tạng, quangduc.com).

14. Các web site có liên quan datviet.com, asiafanatic.net…

Xin trân trọng cám ơn.

Exit mobile version